Xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Thực trạng và giải pháp

CT&PT - Trên cơ sở phân tích sự phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

1. Quan điểm của Đảng về con người và thực trạng xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Kế thừa, phát triển quan điểm khoa học của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, con người xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của chiến lược con người.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định: “Việc xây dựng nếp sống mới, con người mới có tầm quan trọng đặc biệt trong xã hội ta”1. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng ta chỉ rõ các chủ thể giáo dục và chuẩn mực con người mới cần xây dựng là: “Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, gia đình, từng tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng hình thành con người mới. Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”2.

Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đề ra chủ trương “phát huy người tốt, việc tốt. Hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”3. Đây là lần đầu tiên Đảng ta đề ra nhiệm vụ hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới, thực chất là hệ giá trị và chuẩn mực con người mới.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII thông qua Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó xác định nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính: (1) Có tinh thần yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; (2) Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; (3) Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; (4) Năng động, sáng tạo, lao động chăm chỉ, có trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, phấn đấu vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; (5) Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. Có thể thấy, so với thời kỳ trước đổi mới, chuẩn mực con người đã có thêm những chuẩn mực mới, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trên cơ sở quan điểm của các kỳ đại hội trước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) có bước phát triển mới trong nhận thức, đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa và con người: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4. Bên cạnh đó, tại Đại hội, Đảng ta đã đưa ra khái niệm “con người phát triển toàn diện”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) đề ra chủ trương “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”5. Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) đề ra chủ trương: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”6. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển… chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”7. Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa và con người đối với sự phát triển đất nước, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó đặc biệt đề xuất 7 đặc tính cơ bản của con người Việt Nam hiện thời là: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016), Đảng ta xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển con người như sau: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”8. Có thể thấy, chủ trương của Đảng về xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam đã có sự chuyển biến rõ nét, phản ánh kết quả xây dựng con người Việt Nam trong tiến trình đổi mới.

Kế thừa quan điểm của các kỳ đại hội trước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, cùng với việc xác định các mốc phát triển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, Đảng ta khẳng định phương thức thực hiện trọng tâm là “phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”9. Đồng thời đề ra nhiệm vụ: “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”10. Đặc biệt, Đảng đã chỉ ra sự gắn kết giữa các hệ giá trị (quốc gia, văn hóa, con người, gia đình) và chuẩn mực con người vì không ai khác, chính con người được nuôi dưỡng và “mang vác” các hệ giá trị đó. Vì thế, việc xây con người Việt Nam trong thời kỳ mới không tách rời việc xây dựng các hệ giá trị Việt Nam.

Có thể khẳng định, cùng với tiến trình đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc vai trò của nhân tố con người, mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển văn hóa với xây dựng và phát triển con người, trên cơ sở đó đưa ra định hướng về chuẩn mực con người Việt Nam với tư cách là chủ thể, động lực, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Từ đây, Chiến lược phát triển con người toàn diện trở thành trung tâm của chiến lược phát triển đất nước.

Thực tiễn hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã cho thấy những thành tựu của Chiến lược xây dựng con người Việt Nam. Đặc biệt, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân đã từng bước được luật hóa. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11: Pháp lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Ngày 10/11/2022, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được Quốc hội khóa XV ban hành. Bên cạnh đó, tiến trình dân chủ hóa đời sống xã hội làm thay đổi tư duy của người dân Việt Nam, hạn chế tư tưởng giáo điều, tính tích cực, năng động, sáng tạo của mỗi người được phát huy mạnh mẽ. Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng Chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất trên thế giới, cụ thể: năm 2019: 0,703; năm 2020: 0,706; năm 2021: 0,726 và năm 2022: 0,73711. Điều đó cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam ngày càng vì sự phát triển của con người.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhận thức của Đảng về vấn đề con người vẫn còn một số bất cập. Các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới mới chỉ tập trung bàn về khái niệm “con người mới” và “con người Việt Nam phát triển toàn diện”, mà chưa đề cập đến khái niệm “con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này chưa thực sự phù hợp với quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và con người xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, hệ giá trị văn hóa và hệ chuẩn mực con người Việt Nam nói chung cũng chưa được ban hành chính thức để tạo cơ sở cho việc triển khai trong thực tiễn. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014, hay gần đây nhất là Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng đều đề cập mục tiêu từng bước vươn lên khắc phục những hạn chế của con người Việt Nam, song chưa chỉ rõ những hạn chế và chưa đề xuất giải pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế đó.

Bên cạnh đó, việc thực hiện Chiến lược xây dựng con người Việt Nam cũng tồn tại không ít hạn chế. Một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về văn hóa và con người chậm được luật hóa. Sự phát triển văn hóa, đạo đức chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do tác động của mặt trái kinh tế thị trường và sự ảnh hưởng của trào lưu văn hóa bên ngoài, một bộ phận người dân, trong đó có những người trẻ, có biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, lệch chuẩn đạo đức, chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. “Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”12. Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên tại các nhà trường chưa thực sự hiệu quả. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người còn thiên về phương diện giải trí đơn thuần. Công tác xã hội hóa trong xây dựng con người chưa được thực hiện triệt để. Việc phát hiện, biểu dương, tôn vinh gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến chưa thực chất. Chất lượng nguồn nhân lực còn ở mức thấp so với khu vực và thế giới. Kết luận số 76-KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước nhận định: “Việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế chưa đạt được mục tiêu đề ra. Ðạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại”13.

2. Một số giải pháp xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Một là, nâng cao nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của việc xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa với hệ giá trị chuẩn mực tương thích

Trước hết, cần bổ sung đặc tính “xã hội chủ nghĩa” vào mục tiêu xây dựng con người Việt Nam, vì chỉ khi xây dựng được con người xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường mới thực sự bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục quan điểm cho rằng mục tiêu cao nhất của phát triển đất nước là chủ nghĩa xã hội, còn sự phát triển con người chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu. Theo đó, cần ban hành nghị quyết chuyên đề về xây dựng và phát triển con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa với tầm nhìn dài hạn.

Hai là, xây dựng môi trường văn hóa trong toàn xã hội, lấy văn hóa Đảng làm hạt nhân

Con người mang bản chất xã hội và khẳng định mình trong các quan hệ xã hội. Xây dựng con người với các chuẩn mực tốt đẹp chính là xây dựng con người hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Song, con người không tồn tại và phát triển trong trạng thái biệt lập, sự phong phú của mỗi cá nhân (nhân cách) tùy thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội. Do đó, để tạo ra những con người có văn hóa, tất yếu phải tạo dựng môi trường văn hóa, bao gồm: văn hóa gia đình, văn hóa cộng đồng dân cư, văn hóa học đường, văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa Đảng, văn hóa trong toàn xã hội. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng xây dựng văn hóa Đảng trên cơ sở xây dựng văn hóa lãnh đạo, cầm quyền, quản lý, nêu gương, trọng dân, trọng pháp… Bên cạnh đó, cần tích cực xây dựng xã hội học tập, xã hội văn minh với những công dân văn minh - có đạo đức, trọng lẽ phải, tuân thủ pháp luật, năng động, sáng tạo, có trình độ thẩm mỹ, có trách nghiệp với bản thân, gia đình và xã hội...

Ba là, đổi mới sâu sắc và toàn diện giáo dục - đào tạo

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định mục tiêu: “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”14; “chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số”15. Theo đó, trước hết, cần tập trung đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục. Hơn nữa, giáo dục là đào tạo con người cho tương lai, do đó cần làm tốt công tác dự báo, trên cơ sở đó thiết kế mô hình nhân cách con người thời đại mới với hệ giá trị và chuẩn mực tương ứng.

Bốn là, phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong bồi dưỡng tình cảm, nhân cách và lối sống của con người

“Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người”16; thông qua các hình tượng nghệ thuật, con người tự điều chỉnh hành vi, suy nghĩ, thôi thúc hành động theo lẽ phải, hướng đến cái thiện, cái đẹp. Theo đó, văn học - nghệ thuật cần làm tốt vai trò, trách nhiệm với cuộc sống, không chỉ phản ánh hiện thực mà thông qua hiện thực gửi gắm những thông điệp về tư tưởng, bồi dưỡng những chuẩn mực tình cảm, nhân cách, thẩm mỹ cho con người, đồng thời kết nối tình yêu thương, lòng nhân ái giữa con người với con người.

Năm là, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Trong tâm thức của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về tư tưởng, đạo đức và nhân cách tốt đẹp. Xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa là xây dựng con người có lý tưởng sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại. Theo đó, công tác giáo dục lý luận chính trị và các nội dung về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, học sinh, sinh viên phải được thực hiện nghiêm túc, có sự đổi mới cả về nội dung và phương pháp; tăng cường quản lý, kỷ luật trong giảng dạy, học tập; từng bước khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị, góp phần nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, đồng thời làm cho văn hóa Hồ Chí Minh thấm sâu vào tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam.

Sáu là, nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết chống lại sự xâm lăng về văn hóa

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: “chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại”17. Theo đó, cần tích cực đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, phê phán những quan điểm, tư tưởng phản động phủ nhận con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phê phán tâm lý tự ti dân tộc, lối sống lai căng, trái với thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa Việt Nam.

Hệ chuẩn mực con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ phản ánh những đặc trưng riêng của con người ở quốc gia đang phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà còn góp phần điều tiết xã hội, định hướng sự hình thành nhân cách con người theo cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ).


1, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 448, 464.

2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 51, tr. 140-141; t. 55, tr. 393; t. 60, tr. 202; t. 65, tr. 205.

6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 223, 76-77.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 126-127.

9, 10, 12, 14, 15, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 47, 143, 84, 232-233, 264-265, 147.

11. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2022, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2023, tr. 981.

13. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Ket-luan- 76-KL-TW-2020-thuc-hien-Nghi-quyet-33-NQ-TW-xay-dung- con-nguoi-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-444754.aspx.

PGS, TS. Trần Thị Minh Tuyết

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

PGS, TS. Đinh Thanh Xuân

Đại học Bách khoa Hà Nội

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/xay-dung-con-nguoi-viet-nam-trong-thoi-ky-doi-moi-thuc-trang-va-giai-phap-a8209.html