Trong bất kỳ chế độ xã hội nào từ khi xuất hiện giai cấp đến nay, vấn đề dân tộc và giai cấp luôn là những vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề dân tộc đối với bất kỳ chế độ xã hội nào đều dựa trên lập trường, quan điểm giai cấp.
Từ thực tiễn xã hội Việt Nam, trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và giải quyết hợp lý vấn đề dân tộc và giai cấp, tạo ra động lực cho cách mạng. Điều này, phản ánh sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong nhận thức, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam.
1. Quá trình Hồ Chí Minh xác lập quan điểm giải quyết mỗi quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với hành trang ban đầu là chủ nghĩa yêu nước. Trải qua hành trình đầy gian khó trong 10 năm (1911 - 1920), để tìm tòi, khảo nghiệm con đường cứu nước, Người đã đặt chân đến nước Pháp ( nơi có cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu và điển hình nhất); nước Mỹ (nơi tiêu biểu về cách mạng giải phóng dân tộc); nước Anh (nơi đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp) và rất nhiều nước ở châu Phi, Mỹ Latinh... Quá trình đó đã mang lại những tư liệu vô cùng quý giá cho Nguyễn Ái Quốc, qua đó, Người nhận ra rằng: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”1. Trong quãng thời gian đó, việc khảo sát, nghiên cứu các cuộc cách mạng ở các nước mà Nguyễn Ái Quốc đi qua được Người chú ý bằng việc quan sát thực tế đời sống xã hội; gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với những con người cụ thể ở các xã hội; tiếp cận nghiên cứu các tài liệu, báo chí ở thư viện và phương tiện truyền thông; tham gia vào các hoạt động ủng hộ người da đen chống nạn phân biệt chủng tộc, bảo vệ quyền con người; tham gia vào các câu lạc bộ của các tổ chức chính trị - xã hội... Trong cuốn Hồ Chí Minh - Tiểu sử có đề cập: “Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctiních (Trung Mỹ), Urugoay và Áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, anh đã có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử... Anh thường đi xe điện ngầm tới khu Háclem (Harlem) để tìm hiểu nguồn gốc lịch sử, cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và kỳ thị chủng tộc của người da đen”2.
Mặc dù vậy, tất cả các trải nghiệm trên chưa mang đến cho Nguyễn Ái Quốc con đường cứu nước đúng đắn. Đánh giá về cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, trong cuốn Đường Kách mệnh (năm 1927), Nguyễn Ái Quốc viết: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”3. Điều đó cũng có nghĩa rằng, cả cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp chưa giải quyết triệt để vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, nhằm mang lại độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Tháng 7/1920, sau khi đọc Sơ thảo những Luận cương của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên Báo Nhân đạo (L’Humanité) ở Paris, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường cách mạng vô sản. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển về chất trong lập trường của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người tập trung nghiên cứu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp cũng như mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa. Theo Người, sự nghiệp của người bản xứ gắn chặt với cách mạng vô sản ở chính quốc, và kẻ thù của giai cấp cũng như của dân tộc chính là chủ nghĩa đế quốc. Người dùng hình tượng con đỉa hai vòi khi nói về chủ nghĩa đế quốc và để giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp thì “người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi4.
Có thể khẳng định rằng, trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo nghiệm thực tiễn sinh động ở trong nước và trên thế giới, Người rút ra kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”5. Như vậy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đây chính là sản phẩm của trí tuệ, phẩm chất thiên tài Hồ Chí Minh.
2. Quan điểm phản ánh sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam
Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam của Hồ Chí Minh, so với chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện trên các quan điểm sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong xem xét, giải quyết nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội của các nước phương Đông
Do tính chất của thời đại, nên việc C. Mác và Ph. Ăngghen bàn nhiều hơn về đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản là điều dễ hiểu. Lúc đó, các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển mạnh, chưa ảnh hưởng tới sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Do đó, vận mệnh loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước chính quốc. Đây còn là quan điểm của không ít các Đảng Cộng sản chính quốc tham gia Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trước mắt cho các nước phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước tiên phải là đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có điều kiện để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại, trông chờ vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu, để được trả lại quyền độc lập dân tộc cho các nước thuộc địa.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên khẳng định giá trị, vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, nhằm giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Người không ngừng đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, “tả khuynh”, “hữu khuynh” của một số Đảng Cộng sản Tây Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí, cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa và cho rằng: Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mạnh của chính mình, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của nhân dân lao động thế giới, để đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Có thể thấy rằng, ngay từ khi trở thành người cộng sản (tháng 12/1920), Hồ Chí Minh đã kết hợp đúng đắn trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Song, nét độc đáo của Hồ Chí Minh chính là tạo ra sự khác biệt với các quan điểm khi đó còn phổ biến trong Quốc tế Cộng sản, đó chính là đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu ở các dân tộc thuộc địa, nhưng trên quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh quan niệm, vấn đề dân tộc và giai cấp gắn bó chặt chẽ với nhau, có quan hệ biện chứng, thống nhất, song để giải quyết triệt để vấn đề dân tộc phải dựa trên lập trường giai cấp công nhân. Vị trí, vai trò từng vấn đề không ngang bằng nhau, nhưng có giải quyết triệt để vấn đề dân tộc (giành độc lập dân tộc) thì mới mang lại mọi quyền lợi cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Trong thư Kính cáo đồng bào ngày 06/6/1941, trước biến chuyển mau lẹ của tình hình, Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”6. Chỉ có đứng trên lập trường giai cấp công nhân thì mới giải quyết tận cùng vấn đề dân tộc, nhằm đem lại quyền độc lập dân tộc theo đúng nghĩa của nó. Tư duy sáng tạo đó của Hồ Chí Minh đã mở đường cho các dân tộc thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng trên con đường đấu tranh thoát khỏi sự áp bức, nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người khẳng định: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”7.
Thứ hai, Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp trên cơ sở đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản
Đây là sự kế thừa biện chứng lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp, song gắn với điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh coi trọng cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc, song, dù cách mạng giải phóng dân tộc là vấn đề trước tiên ở các nước thuộc địa thì nó cũng không tách khỏi quỹ đạo cách mạng vô sản. Bởi lẽ, nếu tách rời quỹ đạo đó, kẻ thù sẽ nhanh chóng cô lập và đàn áp. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong cách mạng vô sản, nhưng không có nghĩa lệ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Theo Người, cách mạng giải phóng thuộc địa phải thấm nhuần tinh thần tự lực cánh sinh. Từ đó, cần chú ý giải quyết ba vấn đề: Dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, phải tùy tình hình và điều kiện để giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, song luôn hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930 do Hồ Chí Minh khởi thảo ghi rõ: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”8.
Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và dân tộc phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam. Thực tiễn xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX cho thấy: Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp và chính sách khai thác thuộc địa của chúng đã làm cho tình hình xã hội biến đổi sâu sắc. Giai cấp công nhân Việt Nam - lực lượng xã hội mới hình thành và phát triển, họ là sản phẩm của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa do quá trình khai thác thuộc địa, đại diện cho phương thức sản xuất mới. Giai cấp công nhân Việt Nam ở thời điểm những năm 20 của thế kỷ XX số lượng còn nhỏ bé (khoảng 22 vạn người), chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân cư, nhưng đã sớm có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới. Đồng thời, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng hết sức thuận lợi: phần lớn xuất thân từ nông dân nên giữ được mối quan hệ khăng khít, mật thiết với nông dân (giai cấp chiếm đa số trong xã hội với khoảng 95% dân số) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; giai cấp công nhân ra đời trước giai cấp tư sản và chưa hề đi theo hay chịu ảnh hưởng tư tưởng cải lương của giai cấp tư sản. Bên cạnh đó, trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến bị đè nặng bởi ách áp bức dân tộc và áp bức giai cấp, kẻ thù dân tộc cũng chính là kẻ thù của giai cấp. Bởi vậy, giai cấp công nhân Việt Nam vừa đại diện cho lợi ích chung của dân tộc, vừa có nguyện vọng giải phóng dân tộc, nguyện vọng dân chủ và nguyện vọng giải phóng giai cấp. Trên lập trường của chiến sĩ cộng sản chân chính, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc kẻ thù giai cấp chính là kẻ thù của dân tộc Việt Nam; kẻ thù cần phải đánh đổ là bộ máy cai trị tàn bạo, thối nát ở Việt Nam, nơi mà chúng mượn danh nghĩa đi “khai hóa văn minh” để áp bức, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận xương tủy.
Kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp với dân tộc của Hồ Chí Minh là sự khác biệt hoàn toàn so với các phong trào cứu nước trước đó như: khuynh hướng dân chủ tư sản hay phong kiến. Dù các phong trào đó gây được tiếng vang và tổn thất nhất định cho kẻ thù, nhưng cuối cùng đều thất bại bởi những hạn chế trong tập hợp lực lượng; thiếu tổ chức lãnh đạo có khả năng đảm đương sứ mệnh lịch sử của dân tộc; chưa kết hợp giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp một cách triệt để.
Thứ ba, Hồ Chí Minh kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng
Là nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính. Đồng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, Người đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc khác, đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”9. Do đó, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng là vấn đề tất yếu khách quan. Theo Hồ Chí Minh, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản chính là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, Đảng lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính không tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tinh thần yêu nước là một bộ phận của tinh thần quốc tế, đồng thời phải phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện việc kết hợp đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, chúng ta cần phải đấu tranh với những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sôvanh và các thứ chủ nghĩa cơ hội khác; chúng ta không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do của nước mình, mà còn phải đấu tranh cho độc lập, tự do của các nước khác. Vì thế, chỉ khi đứng trên lập trường giai cấp vô sản, mới hiểu rõ chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dẫn theo lời của Giáo sư Giugơlát trong Tình hình thế giới và trong nước tháng 6 và tháng 7 năm 1949: “chủ nghĩa dân tộc Việt Nam”10 là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính. Đó chính là truyền thống được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc mà Việt Nam là một nước điển hình cho tinh thần đó. Nó khác hoàn toàn về chất so với chủ nghĩa dân tộc sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử lên án vì tính chất áp bức, bóc lột, vô nhân đạo, phi nghĩa khi xâm lược các quốc gia, dân tộc khác. Điều này được Người nhấn mạnh trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (ngày 11/02/1951): “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”11.
3. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp soi sáng sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sự cống hiến của Người cho sự nghiệp giải phóng dân tộc không chỉ được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, mà thực tiễn cách mạng thế giới đã cho thấy, sự phát triển sáng tạo của Người về giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp là hoàn toàn đúng đắn, khoa học, mang tính cách mạng, triệt để. Bên cạnh đó, trong xem xét, giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Người thường nêu vấn đề: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc khác.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó dự báo, nhất là tình hình dân tộc, tôn giáo, xung đột dân tộc, sắc tộc ngày càng gay gắt. Cuộc xung đột giữa Nga và Ucraina vẫn đang rất căng thẳng và để lại nhiều hệ lụy trong đời sống quốc tế, tác động tiêu cực đến sự phục hồi kinh tế thế giới sau đại dịch Covid-19; định hình về một trật tự thế giới mới đa cực thay cho đơn cực. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế vẫn bị các nước lớn chi phối, lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề mà mọi quốc gia - dân tộc đều quan tâm giải quyết. Trong nước, kinh tế nước ta giữ được đà tăng trưởng khá, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Song, nước ta vẫn đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội, nhất là âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc tình hình dân tộc, giai cấp, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm làm suy giảm sức mạnh tổng hợp của đất nước…
Trong tình hình mới, sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp vẫn vẹn nguyên giá trị. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc vẫn là một động lực cơ bản của đất nước, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hộ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng giá trị trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp của Hồ Chí Minh, cần khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính; phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở giải quyết hài hòa lợi ích các giai tầng trong xã hội, bảo đảm độc lập dân tộc thực sự và bền vững; hoàn thiện chính sách với các giai cấp, tầng lớp, chính sách dân tộc phù hợp thực tiễn; thực hiện tốt đoàn kết quốc tế vì mục tiêu “nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế” và “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, coi đó là nguồn động lực cơ bản để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Có thể khẳng định, sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam chính là đánh giá cao sức mạnh chủ nghĩa dân tộc chân chính. Người coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy; giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp vô sản; kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế; xác định kẻ thù của giai cấp cũng chính là kẻ thù của dân tộc. Đó chính là những cống hiến to lớn, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của một nhà lãnh tụ đã hiến dâng trọn đời mình cho dân tộc Việt Nam và nhân loại cần lao.
1, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 287, 441.
2. GS. Song Thành (Chủ biên): Hồ Chí Minh - Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 59.
3, 7, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 296; t. 4, tr. 64; t. 6, tr. 161.
4. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 296, 130.
6, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 230, 1.
9, 11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 39, 38.
Thượng tá, TS. TRỊNH QUỐC VIỆT
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/su-phat-trien-sang-tao-cua-ho-chi-minh-trong-giai-quyet-van-de-dan-toc-va-giai-cap-o-viet-nam-a8180.html