Nhận thức về bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội
Sứ mạng của chính sách xã hội (CSXH) là theo đuổi giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội (CNXH), nói cách khác, giá trị cốt lõi của CNXH được thực thi bằng CSXH. Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh được nhân dân ta ghi tạc như những giá trị cốt lõi của xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) kế thừa, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thời kỳ mới, Đảng ta xác định, những giá trị cốt lõi thể hiện đặc trưng tổng quát của mô hình xã hội XHCN mà chúng ta phấn đấu xây dựng là một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Một xã hội XHCN thể hiện tính ưu việt là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Bàn về CNXH và mục tiêu phát triển xã hội theo con đường đi lên CNXH, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”1.
Xã hội XHCN mà chúng ta tiến đến trên con đường quá độ hiện nay, là một xã hội được xây dựng trên nền tảng phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN mang màu sắc và đặc trưng riêng, song trùng với xây dựng, phát triển văn hóa và quản lý phát triển xã hội bền vững. Chính sách xã hội là công cụ, phương tiện chính của Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm định hướng XHCN trong giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra từ thực tiễn trên cơ sở bảo đảm quyền con người, nâng cao hiệu quả phát triển xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước.
Mục tiêu bao trùm của CSXH là mang lại cho mọi người dân trong xã hội cuộc sống tốt đẹp, phát triển xã hội một cách bền vững, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống văn hóa của dân tộc, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng để nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân.
Trong suốt chặng đường đổi mới và phát triển, Đảng ta nhận thức sâu sắc và kiên định mục tiêu XHCN trong chủ trương, đường lối xây dựng CSXH, nhằm hướng tới các mục tiêu, giá trị cốt lõi mà nhân dân và đất nước ta đang theo đuổi. Cùng với chính sách phát triển kinh tế, chính sách quốc phòng - an ninh, CSXH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chi phối trực tiếp đời sống tinh thần và vật chất của mỗi hộ gia đình, người dân và thể hiện đặc trưng tính ưu việt của CNXH. Chính sách xã hội chính là phương tiện, công cụ để Nhà nước thực hiện các mục tiêu xã hội theo định hướng XHCN.
Để bảo đảm định hướng XHCN không bị “xô lệch”, “chệch hướng”, một trong những sáng tạo nổi bật nhất của Đảng ta là xây dựng một nền KTTT định hướng XHCN; thành công lớn nhất trong nhận thức và lý luận của Đảng qua các thời kỳ, nhất là sau đổi mới chính là phát triển kinh tế theo định hướng XHCN và thành quả của nó làm điều kiện để thực hiện các mục tiêu xã hội, mà trên hết là thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta qua 37 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm thế giới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân”2. Cương lĩnh năm 2011 tiếp tục nhấn mạnh: “kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất...”3.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện”4. Đây là những quan điểm, định hướng rất quan trọng, đúng đắn của Đảng, bảo đảm CSXH nhất quán và phù hợp với định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội”5.
Về tiến bộ xã hội lấy mục tiêu vì con người, phát triển con người làm chủ đạo, Đảng ta luôn quán triệt: “Huy động mọi khả năng của Nhà nước và của nhân dân, trung ương và địa phương để giải quyết các vấn đề của chính sách xã hội”6 và “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”7 thông qua “Tạo môi trường và điều kiện để mọi lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn...”8 để “Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện”9. Đảng yêu cầu có giải pháp “Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội... Coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc”10.
Nhận thức sâu sắc cùng với quyết tâm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN của Đảng ta đã tạo điều kiện cho CSXH được thực hiện song hành với mục tiêu tiến bộ và công bằng, mục tiêu nâng cao đời sống, phát triển con người toàn diện và mục tiêu tất cả người dân được thụ hưởng công bằng các thành quả của phát triển. Chính sách xã hội với ba nội dung cơ bản: Nâng cao năng lực vốn con người (thông qua tăng cường phúc lợi toàn dân), cải thiện môi trường hoạt động của con người (thông qua phát triển các chính sách lao động, việc làm, y tế, giáo dục, phát triển doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng...) và bảo đảm an sinh xã hội (thông qua các chính sách hỗ trợ người yếu thế tham gia thị trường lao động, tăng cường bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và giảm nghèo).
Quan điểm công bằng xã hội đã được mở rộng, không chỉ công bằng về lợi ích vật chất, mà còn hướng đến công bằng về cơ hội và toàn diện đến mọi tầng lớp dân cư: “Tạo môi trường và điều kiện để mọi lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư”11. Đến Đại hội XII, quan điểm về CSXH phù hợp với các giai cấp, tầng lớp và cộng đồng dân cư được nhấn mạnh và nhận thức sâu sắc hơn: “Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội,... quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo, bảo đảm sự phát triển xã hội ổn định và bền vững...”12.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng về CSXH từng bước được hoàn thiện và thực hiện có kết quả trong nền KTTT định hướng XHCN cơ bản bảo đảm công bằng, toàn diện, bao trùm, tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế; bảo đảm cơ bản quyền an sinh của người dân; góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chủ trương CSXH hướng tới “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”13.
Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua
Phát triển theo con đường XHCN với mục tiêu vì con người đã mang lại những thay đổi vượt bậc cho Việt Nam, chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam ngày càng tiến bộ. Trong báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam công bố ngày 09/9/2022, chỉ số HDI của Việt Nam là 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia14.
Thành tựu phát triển kinh tế làm cơ sở bước đầu đạt mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân là thực tiễn minh chứng về định hướng XHCN trong thực hiện CSXH. Từ xuất phát điểm thấp, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, người dân nhiều nơi thiếu ăn, thiếu mặc, hơn 2/3 hộ dân là hộ nghèo, là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 90 của thế kỷ XX, đến nay, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.100 USD, gấp hơn 40 lần trong vòng hơn ba thập niên. Đời sống nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội theo định hướng XHCN.
Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo. Đầu những năm 1990, từ một quốc gia hơn 70% dân số nghèo đói, đến nay tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,23% (năm 2021). Thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng 3,5 lần trong 10 năm qua. Mức sống của người nghèo, người dân trên địa bàn nghèo, vùng đặc biệt khó khăn được cải thiện rõ rệt. Người nghèo có khả năng lao động được hỗ trợ sinh kế phù hợp với nhu cầu, được hỗ trợ học nghề, bồi dưỡng kiến thức sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài để vươn lên thoát nghèo và làm giàu.
Chính sách đối với người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và được thực hiện tốt nhất trong điều kiện kinh tế - xã hội cho phép; đã trở thành phong trào “đền ơn đáp nghĩa” sâu rộng, xuyên suốt từ Trung ương đến các làng, bản, thôn, xóm. Cả hệ thống chính trị đã tích cực chăm lo đời sống gia đình người có công và công tác thương binh, liệt sĩ. Đến năm 2020, bảo đảm 99,5% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.
Thể chế thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm. Các chính sách hỗ trợ tạo việc làm góp phần thực hiện mục tiêu toàn dụng lao động, giảm thất nghiệp. Kết quả tạo việc làm đạt thành công nổi bật. Trong nhiều năm qua, hằng năm đã tạo được khoảng 1,5 - 1,6 triệu lượt việc làm cho người lao động. Tỷ lệ thất nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực15. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Chính sách tiền lương tối thiểu được điều chỉnh hằng năm đã cơ bản bảo đảm mức sống tối thiểu, góp phần bảo vệ thu nhập cho người lao động. Tiền lương và thu nhập bình quân của người lao động đã tăng 3 lần trong 10 năm qua16. Chất lượng nguồn nhân lực liên tục được nâng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 đạt 70,25%, tăng 1,53 lần so với năm 2012 (46%); tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ tăng từ 15,58% năm 2011 lên 26,1% vào năm 2021.
Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH). Diện bao phủ bảo hiểm xã hội (BHXH) ngày càng mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH tăng đều hằng năm, đạt 36% năm 2021. Hiện nay, có trên 3,3 triệu người đang được hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH hằng tháng. Phát triển BHXH tự nguyện đã tăng cơ hội cho nông dân, lao động khu vực phi chính thức, lao động thu nhập thấp tham gia17. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động khi chấm dứt hợp đồng, mất việc làm, trong giải quyết chế độ chính sách đối với người lao động, đặc biệt là khi doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính; tạo sự gắn kết, chia sẻ giữa những người tham gia; tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng doanh nghiệp18.
Các chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi, 3,5% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên hằng tháng; trẻ em được bảo vệ và chăm sóc, xây dựng môi trường sống an toàn để thực hiện đầy đủ quyền trẻ em; chăm sóc và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm nên đời sống được ổn định và có phần cải thiện.
Chỉ số phát triển giới của Việt Nam nằm trong các quốc gia thuộc nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới. Vai trò, địa vị của phụ nữ được củng cố và nâng cao cả trong gia đình và ngoài xã hội. Tỷ lệ nữ là lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương, là lãnh đạo doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đều tăng. Khoảng 48% lực lượng lao động là nữ, phụ nữ chiếm 50% đối tượng thụ hưởng chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Về chăm sóc y tế, việc hoàn thiện chính sách, tăng đầu tư của ngân sách nhà nước và cải tiến phương thức thực hiện đã tạo đột phá về tỷ lệ bao phủ của bảo hiểm y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm y tế. Đến năm 2021, cả nước có 88,8 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 91% dân số; tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 96% - 98%; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần; tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 74 tuổi vào năm 2020. Y tế dự phòng được tăng cường đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy hiểm, không để xảy ra dịch trên quy mô lớn, ngăn ngừa thành công các đợt bùng phát trong đại dịch Covid-19. Hệ thống y tế cơ sở được tăng cường, nhất là ở các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn, bao gồm cả hạ tầng trạm y tế, bệnh viện và cán bộ y tế.
Giáo dục và đào tạo ngày càng quan tâm đến con người, vì mục đích phát triển tự do, toàn diện con người; đã hoàn thành trước thời hạn phổ cập giáo dục từ cấp mầm non (trẻ 5 tuổi) đến trung học cơ sở; 95% người lớn biết đọc, biết viết; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt 26,1%. Mạng lưới các trường chuyên biệt vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục tăng quy mô, tăng số lượng học sinh được học trong các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú và dự bị đại học; các chương trình, chính sách hỗ trợ giáo dục cho con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số, vùng khó khăn được triển khai hiệu quả.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong thực hiện các mục tiêu xã hội, qua tổng kết thực tiễn, việc thực hiện CSXH bảo đảm định hướng XHCN vẫn còn một số bất cập, nhất là đầu tư cho phát triển văn hóa, xã hội chưa đúng trọng tâm, chưa ngang bằng với kinh tế, chính trị. Chưa chú trọng đúng mức phát triển, quản lý phát triển xã hội hài hòa, lành mạnh, bền vững... An sinh xã hội được quan tâm, xóa đói, giảm nghèo đạt được thành tựu quan trọng, song phúc lợi xã hội chưa được nhận thức, thực hiện đầy đủ, nhân dân chưa được thụ hưởng công bằng thành quả của đổi mới tương xứng với công sức đóng góp; việc nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh, nâng cao thể chất còn nhiều hạn chế. Những bất cập trên làm giảm sút sự gắn bó và niềm tin vào tính ưu việt của chế độ XHCN của nước ta.
Đổi mới, nâng cao chất lượng thực hiện chính sách xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định các định hướng lớn về CSXH: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”19. Phát triển xã hội hiện đại, bền vững góp phần xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và phát triển con người Việt Nam toàn diện, phát huy tiềm năng, thế mạnh đóng góp cho phát triển xã hội hài hòa; người dân được bảo đảm ASXH, phúc lợi xã hội, có thu nhập cao và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong đất nước hùng cường, thịnh vượng. Để bảo đảm định hướng XHCN, việc tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng CSXH, cần bám sát các quan điểm cơ bản sau:
Một là, CSXH là chính sách cho con người, vì con người, có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ ta, góp phần quan trọng trong bảo đảm định hướng XHCN, thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội, ASXH để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; bảo đảm ASXH, phúc lợi xã hội cho nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thụ hưởng ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Hai là, xây dựng và thực hiện CSXH phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả rủi ro, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm bình đẳng giới và tính bền vững trong CSXH, nhất là ASXH, phúc lợi xã hội, an ninh con người, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân.
Ba là, đầu tư cho thực hiện các mục tiêu CSXH là đầu tư cho phát triển. Cần huy động và phân bổ nguồn lực phù hợp với khả năng nền kinh tế và yêu cầu hiện thực hóa mục tiêu CSXH; trong đó nguồn lực nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nguồn lực của xã hội là quan trọng; kết hợp nội lực với ngoại lực thông qua hợp tác quốc tế.
Bốn là, đổi mới, nâng cao chất lượng CSXH toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển; hỗ trợ người dân ứng phó kịp thời, thích ứng linh hoạt và hiệu quả trước các rủi ro trong cuộc sống.
Năm là, thực hiện CSXH phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý chặt chẽ, hiệu quả của Nhà nước, sự giám sát thường xuyên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, sự tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp. Khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy truyền thống tương thân tương ái, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường của nhân dân trong giải quyết các vấn đề xã hội.
Để thực hiện thành công các mục tiêu của CSXH bảo đảm định hướng XHCN, cần tiếp tục thực hiện ba nhóm nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, tập trung vào nhiệm vụ phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm bền vững và phát triển thị trường lao động. Trọng tâm là cải cách chính sách về việc làm, tiêu chuẩn nghề nghiệp; tạo mở đầy đủ việc làm, phát triển việc làm bền vững, phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập; thu hẹp việc làm phi chính thức; xây dựng cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, chủ động thích ứng với già hóa dân số; đào tạo nghề làm giải pháp căn bản, đột phá phát triển nguồn nhân lực; cải cách các chính sách đồng bộ khác về quan hệ lao động, an toàn, vệ sinh lao động.
Hai là, phát triển hệ thống ASXH đa tầng, toàn diện, bao trùm, linh hoạt, thích ứng, bảo đảm mức sống tối thiểu cho mọi người dân. Trọng tâm là tập trung vào phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế theo hướng bắt buộc, bao phủ toàn bộ lực lượng lao động; xây dựng hệ thống ASXH đa tầng, thích ứng, linh hoạt bảo vệ người dân trước các rủi ro trong cuộc sống, đặc biệt là trước các cú sốc diện rộng; xây dựng chính sách bảo trợ xã hội cho người không có khả năng thoát nghèo; bảo đảm mức sống tối thiểu cho mọi người dân.
Ba là, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, trong đó trọng tâm là hướng đến bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng, trong đó cần ưu tiên: 1- Có giải pháp đột phá về phát triển nhà ở cho người dân, nhất là nhóm đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp; xóa bỏ hoàn toàn tình trạng nhà tạm, nhà dột nát cho các đối tượng là người nghèo, cận nghèo; 2- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở; phổ cập giáo dục cho trẻ dưới 5 tuổi, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông; xây dựng xã hội học tập; nâng cao chất lượng giáo dục khu vực miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; phát triển giáo dục hòa nhập đối với trẻ em khuyết tật; 3- Tiếp tục chú trọng phát triển mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng; đẩy mạnh đầu tư y tế dự phòng bảo đảm chăm sóc sức khỏe nhân dân và kiểm soát dịch bệnh; phát triển bảo hiểm y tế toàn dân.
1. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5/2021, tr. 5.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 79.
4, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 135-136, 134-135.
5, 19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 147-148.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 51, tr. 47.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 101.
8, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 80.
9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 136, 136-138.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 47.
14. Xem: Chỉ số phát triển con người Việt Nam tăng hai bậc, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 10/9/2022, https://nhandan.vn/chi-so-phat-trien-con-nguoi-viet-nam-tang-hai-bac-post714578.html.
15. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 45% năm 2015 xuống còn 32% năm 2020.
16. Thu nhập bình quân của người lao động năm 2020 là 4,2 triệu đồng/tháng.
17. Chỉ trong 3 năm 2019 - 2021 đã phát triển mới khoảng 1 triệu người, gấp 5 lần 10 năm trước đây.
18. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 8,27 triệu người năm 2012 lên gần 13,4 triệu người năm 2021 (chiếm 30% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp).
Theo Tạp chí Cộng sản
Kiều Trang tổng hợp
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/bao-dam-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-trong-xay-dung-va-thuc-hien-chinh-sach-xa-hoi-o-viet-nam-a8146.html