1. Những điểm mới trong nhận thức về kiểm soát quyền lực ở Việt Nam
Nhìn lại lịch sử, có thể thấy cho đến những năm cuối thế kỷ XX, trong văn kiện chính thức của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và văn bản pháp lý của Nhà nước, trong các bài phát biểu, bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hầu như không nói tới vấn đề kiểm soát quyền lực. Có thể lý giải điều này là, về mặt nhận thức lý luận, hầu như tất cả mọi người đều coi mọi chức vụ, mọi vị trí trong bộ máy đảng, nhà nước là sự phân công, phân nhiệm khách quan, cần sự phối hợp, cộng tác giữa những cán bộ để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Hơn nữa, nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nhất trí trong Đảng đủ sức ngăn chặn mọi biểu hiện của độc đoán, chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa, tranh giành quyền lực, địa vị cũng như sự lợi dụng, lạm dụng vị trí, quyền lực vì mục đích cá nhân.
Về mặt thực tiễn, những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và những năm đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn, đòi hỏi sự cống hiến, hy sinh, ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, khiến cho rất ít khi xuất hiện các hiện tượng tiêu cực như lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực... để vụ lợi cá nhân.
Song, càng đi vào phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế thì trong thực tiễn ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực liên quan tới việc sử dụng quyền lực của cán bộ, đảng viên ở các cấp, chẳng hạn cố ý vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm dụng, lợi dụng quyền lực vì mục đích cá nhân. Những điều này không chỉ làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo, quản lý của bộ máy đảng, nhà nước mà còn góp phần làm cho nạn tham nhũng, lãng phí có xu hướng gia tăng ở mọi cấp, mọi nơi. Thực trạng đó đã làm dư luận xã hội bức xúc, đặt ra vấn đề phải nghiên cứu và nhận thức rõ hơn về sự cần thiết của việc kiểm soát quyền lực và hoàn thiện hơn nữa cơ chế kiểm soát quyền lực, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hơn 10 năm qua, nhận thức của Đảng về kiểm soát quyền lực có bước phát triển mạnh mẽ, vấn đề kiểm soát quyền lực đã được đề cập chính thức trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng (năm 2011), trong các bài phát biểu của lãnh đạo Đảng, đặc biệt là của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những điểm mới thể hiện nhận thức của Đảng về kiểm soát quyền lực như sau:
Trước hết là nhận thức về sự cần thiết, cấp bách của kiểm soát quyền lực. Đồng thời với sự thừa nhận quyền lực là khách quan, cần thiết trong đời sống của xã hội, thì cũng thừa nhận quyền lực luôn có xu hướng bị tha hóa và là nguồn gốc của nhiều hiện tượng tiêu cực, thậm chí là tội phạm. Lịch sử cho thấy sự tha hóa quyền lực có thể xảy ra trong bất cứ chế độ chính trị - xã hội nào, trong bất kỳ nhà nước nào và đảng chính trị nào, nhất là trong điều kiện xã hội còn nhiều lỗ hổng về pháp lý. Do đó, cần phải kiểm soát quyền lực, để người được trao quyền lực không vượt quá phạm vi quyền hạn, không sử dụng quyền lực sai mục đích, trái với ý chí của chủ thể đã ủy quyền cho mình. kiểm soát quyền lực càng cần thiết trong một xã hội đang chuyển đổi, khi kinh tế thị trường phát triển nhưng thể chế pháp lý chưa hoàn thiện, còn nhiều lỗ hổng, cùng với những biến đổi về giá trị xã hội, đạo đức. Kiểm soát quyền lực không chỉ là vấn đề của đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, là xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa cầm quyền mà là bộ phận gắn bó hữu cơ với dân chủ và Nhà nước pháp quyền, với bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Không thể nói tới những điều này nếu không có cơ chế hoặc thiếu kiểm soát quyền lực.
Tiếp theo, nhận thức về đối tượng của kiểm soát quyền lực đã được mở rộng từ kiểm soát quyền lực nhà nước tới kiểm soát quyền lực chính trị nói chung, nghĩa là không chỉ đối với quyền lực của các cơ quan và các cá nhân trong bộ máy nhà nước mà còn là quyền lực của các cơ quan đảng, các cá nhân trong bộ máy đảng và hệ thống chính trị nói chung. Điều này thể hiện trong quan điểm được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định khi đề cập tới công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng là “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Người có chức vụ càng cao, quyền lực càng lớn càng cần phải được kiểm soát.
Chủ thể kiểm soát quyền lực đã được nhận thức rộng hơn, không chỉ là các cơ quan có trách nhiệm trong bộ máy của Đảng, Nhà nước mà còn từ các chủ thể khác trong hệ thống chính trị. Đó là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, rộng hơn nữa là hệ thống báo chí, truyền thông và trực tiếp từ người dân. Vì vậy, kiểm soát quyền lực bao gồm kiểm soát từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài Nhà nước và hệ thống chính trị. Khẳng định về sự cần thiết kiểm soát quyền lực trong nội bộ hệ thống cơ quan nhà nước, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều này được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (tháng 5/2013) về sửa đổi Hiến pháp năm 1992: “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Về kiểm soát quyền lực từ phía xã hội, Nghị quyết số 25 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (tháng 6/2013) nêu chủ trương “sớm ban hành và thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, quy định để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh”.
Hoạt động kiểm soát quyền lực được hiểu rộng hơn, phong phú hơn, tương ứng với vị trí, vai trò, đặc điểm của mỗi chủ thể. Hoạt động kiểm soát quyền lực có thể từ gốc, nghĩa là từ khi trao quyền, sao cho quyền phải được trao một cách hợp pháp, công khai, đúng người, đúng việc; trao quyền đi đôi với xác định rõ nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm tương xứng và ngược lại. Sau khi được trao, quyền lực tiếp tục được kiểm soát bằng các hoạt động giám sát, kiểm tra, kỷ luật của Đảng hoặc hoạt động giám sát, thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... của cơ quan nhà nước. Quyền lực cũng được kiểm soát bằng các hoạt động phản biện xã hội, giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, của báo chí, truyền thông; bằng hoạt động giám sát, khiếu nại, tố cáo của người dân...
Căn cứ của kiểm soát quyền lực được chỉ rõ, trước hết là căn cứ vào các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời là các chuẩn mực đạo đức của đảng viên, công chức, viên chức. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ rõ, đồng thời với xây dựng chuẩn mực đạo đức, phải “nhốt quyền lực trong lồng thể chế”, nghĩa là mỗi một chức vụ, vị trí đều phải có quy định tương xứng về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm và mọi hành vi kiểm soát quyền lực phải căn cứ vào các quy định đó. Ngay cả căn cứ đạo đức cũng cần được thể chế hóa thành các quy định cụ thể về những điều đảng viên được làm và những điều không được làm, để mỗi người có quyền lực tự soi xét, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi của mình.
Kiểm soát quyền lực được hiểu với nhiều mức độ, từ sự phê phán, chỉ trích của dư luận xã hội về mặt đạo đức, lối sống của cá nhân người có quyền lực tới các hình thức kỷ luật của Đảng và trách nhiệm pháp lý về hành chính, dân sự, hình sự theo pháp luật của Nhà nước.
2. Những điểm mới về thể chế kiểm soát quyền lực
Với sự phát triển nhận thức như trên, thể chế kiểm soát quyền lực có nhiều điểm mới, thể hiện trong hệ thống các quy định ngày càng đầy đủ, chặt chẽ của Đảng và Nhà nước.
Về thể chế Đảng: Đại hội XI của Đảng đã sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng, trong đó có những điều liên quan tới thẩm quyền của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, là căn cứ quan trọng hàng đầu để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ủy ban Kiểm tra Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện kiểm soát quyền lực trong Đảng.
Để tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực liên quan tới quyền lực, Ban Chấp hành Trung ương các khóa XI, XII, XIII đã bổ sung, hoàn thiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trong đó, phân công rõ ràng, rành mạch phạm vi trách nhiệm, quy trình công tác của các cơ quan và thành viên của các cơ quan này. Trung ương cũng yêu cầu Ban Chấp hành đảng bộ các cấp sau Đại hội, đều phải bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của mình. Đó là căn cứ pháp lý trong nội bộ Đảng để các cơ quan, cá nhân tự điều chỉnh hành vi, quan hệ của mình và là căn cứ để cấp ủy cấp trên kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đối với các cấp ủy viên và người đứng đầu cấp ủy cấp dưới nếu có hành vi sử dụng sai trái quyền lực được giao.
Bộ Chính trị các khóa XI, XII đã sửa đổi Quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thuộc Ban Chấp hành Trung ương. Đây cũng là căn cứ quan trọng để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, nhất là của người đứng đầu các cơ quan thuộc Trung ương Đảng phù hợp với bối cảnh mới.
Đối với công tác tổ chức và cán bộ, một lĩnh vực quan trọng hàng đầu của Đảng cần phải kiểm soát quyền lực, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Quy định về tiêu chuẩn đối với cán bộ các cấp, làm căn cứ cho công tác quy hoạch, bầu vào cấp ủy các cấp, nhất là cấp chiến lược như Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là quy hoạch và bầu bốn chức danh lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Cùng với quy định về tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành Hướng dẫn về quy trình tiến hành quy hoạch, bầu và bổ nhiệm cán bộ.
Thực tiễn hơn 10 năm qua cho thấy, những quy định và hướng dẫn như vậy đã hạn chế được nhiều hiện tượng tùy tiện, chủ quan, cố tình luồn lách trong công tác tổ chức, cán bộ. Gần nhất, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Theo đó, phân cấp rõ hơn, toàn diện hơn thẩm quyền của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan có trách nhiệm khác trong việc bổ nhiệm, quản lý cán bộ cao cấp kể cả ở các cơ quan dân sự và lực lượng vũ trang. Điều này góp phần kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực tổ chức, cán bộ tốt hơn.
Tương tự lĩnh vực tổ chức, cán bộ, lĩnh vực kiểm tra, giám sát - là những lĩnh vực hoạt động của các cơ quan và các cá nhân được tin cậy nhất của Đảng, cũng được tăng cường kiểm soát quyền lực bằng Quy chế kiểm tra, giám sát của Đảng do Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành.
Để xây dựng và chỉnh đốn Đảng về mặt đạo đức, kiểm soát quyền lực từ phương diện đạo đức, Ban Chấp hành Trung ương các khóa XI, XII đã ban hành Quy định (sửa đổi) về những điều đảng viên không được làm, trong đó có nhiều điều được bổ sung, cập nhật phù hợp với thực tiễn mới. Bộ Chính trị khóa XII cũng ban hành Quy định về Trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, áp dụng cho mọi đảng viên là lãnh đạo các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị từ trung ương tới cơ sở. Đây là những quy định cụ thể, rất cần thiết để mỗi đảng viên tự kiểm soát mình và cơ quan lãnh đạo cấp trên, cơ quan chuyên trách khác của Đảng thực hiện giám sát, kiểm tra, thi hành kỷ luật.
Để góp phần kiểm soát quyền lực từ phía Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ra Quyết định số 217-QĐ/TW ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định 218-QĐ/TW ban hành “Quy chế góp ý xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”. Đây là những căn cứ để Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp phát huy dân chủ trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để tăng cường kiểm soát quyền lực qua công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Bộ Chính trị khóa XII đã quyết định kiện toàn tổ chức và đặt Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tổng Bí thư. Hiện nay, cơ quan này đã được thành lập tại các tỉnh, thành phố trong cả nước, góp phần kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị ở các cấp.
Về thể chế Nhà nước: Hiến pháp năm 2013 đã có những khẳng định quan trọng, thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực. Điều 2 Hiến pháp ghi:
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Các nguyên tắc trên của Hiến pháp năm 2013 đã được thể hiện cụ thể, chặt chẽ hơn trong hệ thống các văn bản pháp lý (sửa đổi) như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân tối cao, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Nghị định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Trước đây, có những điều quy định chưa thật cụ thể, chặt chẽ, tạo kẽ hở cho những hành vi “lách luật” của người có quyền lực, nhất là trong việc bổ nhiệm cán bộ; phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án... Thí dụ, Hiến pháp năm 1992 ghi khá chung chung là Chủ tịch nước “quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong lực lượng vũ trang”, đến Hiến pháp năm 2013 ghi rõ hơn, cụ thể hơn là Chủ tịch nước “quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam”. Quy định này phân định rõ hơn quyền hạn của Chủ tịch nước với quyền hạn của Thủ tướng, quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an trong phong hàm, cấp sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang.
Sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau còn được thể hiện ở nhiều luật chuyên ngành được xây dựng mới hoặc sửa đổi như Luật Đất đai, Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư công, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài...
Một điểm mới nữa về thể chế kiểm soát quyền lực đối với cơ quan nhà nước là sự ra đời Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTƯ MTTQVN ngày 15/6/2017, giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về phối hợp thực hiện giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đây là sự cam kết cộng tác giữa các cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền với tổ chức mang tính đại diện rộng rãi nhất của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội ở Việt Nam, thể hiện sự coi trọng Mặt trận trong kiểm soát quyền lực của cơ quan nhà nước bằng hình thức thích hợp.
3. Những điểm mới trong thực tiễn kiểm soát quyền lực
Trên cơ sở tiến bộ trong nhận thức lý luận và thể chế kiểm soát quyền lực như trên, thực tiễn kiểm soát quyền lực trong bộ máy đảng, nhà nước cho thấy một số điểm mới sau:
Thứ nhất, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng thật sự được đẩy mạnh từ trung ương tới địa phương, vừa khẩn trương, nghiêm túc, công khai, toàn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã thành lập nhiều đoàn kiểm tra do các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư dẫn đầu kiểm tra theo chuyên đề tại nhiều địa phương. Các kết luận kỳ họp của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong những năm gần đây được xã hội đón chờ và rất hoan nghênh vì không ít cá nhân kể cả ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương vi phạm Điều lệ và các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật, mắc khuyết điểm trong thực hiện nhiệm vụ và trong đạo đức, lối sống đã bị kiểm tra và chịu hình thức kỷ luật nghiêm khắc của Đảng. Điều đó cũng có tác dụng cảnh báo, răn đe đối với các cấp ủy đảng, cá nhân lãnh đạo cơ quan, cấp ủy ở các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khóa XIII, XIV đã tăng cường mạnh mẽ hơn các hoạt động giám sát tối cao. Nhiều chủ trương, chiến lược, quy hoạch quốc gia.... do Chính phủ trình được Quốc hội dành nhiều thời gian thảo luận trước khi thông qua. Việc tăng thẩm quyền cho Thủ tướng khi cần thiết (thí dụ trong việc đối phó với đại dịch Covid -19) được Quốc hội thảo luận và ban hành thành nghị quyết. Các phiên chất vấn tại kỳ họp Quốc hội đối với Chính phủ, tại kỳ họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với các bộ, ngành về các chính sách và thực hiện chính sách, pháp luật đã diễn ra thường xuyên hơn và sâu sát hơn. Các cuộc giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại địa phương, bộ ngành theo chuyên đề được thực hiện nhiều hơn và kỹ càng, thực chất hơn. Hoạt động giám sát như vậy đã giúp Chính phủ, Thủ tướng, các bộ trưởng và các cơ quan của Chính phủ thận trọng hơn, thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, từ sau Đại hội XI, XII của Đảng, phần lớn các tỉnh, thành phố và quận, huyện đã thực hiện nhất thể chức danh Bí thư cấp ủy và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, thực tiễn cho thấy hiệu quả tốt. Theo đó, trên cơ sở của Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Điều lệ Đảng, Bí thư đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân đã có nhiều thẩm quyền và hình thức để kiểm soát quyền lực đối với người đứng đầu cơ quan hành chính, góp phần ngăn chặn từ sớm những sai phạm có thể xảy ra từ phía cơ quan và người đứng đầu cơ quan hành pháp ở địa phương.
Thứ tư, trong việc kiểm tra, thi hành kỷ luật cán bộ, đã có sự kết hợp đồng bộ và kịp thời giữa trách nhiệm chính trị với trách nhiệm pháp lý, giữa kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước. Nhiều cán bộ, công chức cấp cao, kể cả đang hoặc nguyên là thứ trưởng, bộ trưởng, bí thư hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đang là hoặc nguyên là ủy viên Trung ương Đảng sau khi bị kỷ luật về đảng, sẽ ngay lập tức chịu kỷ luật hành chính và nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì có thể bị khởi tố, truy tố, xét xử và chịu hình phạt tương xứng theo luật. Ngược lại, người nào vì khuyết điểm, sai phạm phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự thì ngay sau đó phải chịu một hình thức kỷ luật tương xứng về Đảng. Sự đồng bộ, kịp thời đó thể hiện cụ thể, rõ ràng nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát huy dân chủ ở nước ta, được dư luận xã hội rất đồng tình, hoan nghênh.
Thực tiễn kiểm soát quyền lực từ phía xã hội cũng có điểm mới là từ khi có Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cả trung ương và địa phương đã ngày càng được thực hiện một cách nền nếp, bài bản hơn, chất lượng và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng vào phát huy dân chủ, kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong phạm vi cả nước.
Báo chí, truyền thông tiếp tục thể hiện vai trò to lớn trong giám sát, phản biện xã hội, là công cụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, nhân dân để kiểm soát quyền lực đối với mọi tổ chức, cá nhân. Ngược lại, báo chí, truyền thông cũng được kiểm soát chặt hơn bằng Luật Báo chí (sửa đổi), Luật Xuất bản, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, bằng Quy hoạch báo chí do Chính phủ ban hành năm 2019.
4. Một số vấn đề đặt ra, đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực
Những tiến bộ mới trong kiểm soát quyền lực ở Việt Nam thời gian qua là rất đáng kể, song vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao”1. Cùng với đó, là hiện tượng gần đây ở nhiều nơi, cán bộ, công chức có thẩm quyền không dám làm, không dám quyết định, không dám chịu trách nhiệm, chẳng hạn trong việc chậm giải ngân, đấu thầu, tiến độ thực hiện dự án, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội... đã ảnh hưởng tới việc hoàn thành nhiệm vụ của bộ, ngành, địa phương. Nhiều ý kiến cho rằng, những quy định mới về kiểm soát quyền lực cả về mặt đảng và nhà nước đã làm bó hẹp quyền lực của người có chức vụ, khiến ngay cả người tích cực cũng lúng túng. Hơn nữa, thời gian qua, việc kỷ luật nhiều cấp ủy và cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, quản lý đã khiến cho nhiều người co lại, giữ mình, “phòng thân”. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã nhận thấy tình tình này và đưa ra chủ trương xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Nội vụ cụ thể hóa chủ trương này trong đổi mới chính sách đối với công chức, viên chức.
Thực trạng trên cho thấy mối quan hệ quyền lực giữa Đảng và chính quyền, giữa Đảng và xã hội, giữa tập thể và cá nhân, nhất là với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền vẫn là những quan hệ đòi hỏi phải được thể chế hóa một cách rõ ràng, cụ thể, đồng thời được nhận thức và thực hiện nghiêm túc, linh hoạt. Suy cho cùng, đó cũng là những biểu hiện của mối quan hệ phổ biến giữa thể chế và con người, pháp lý và đạo lý mà mọi nền chính trị đều gặp phải và cần được giải quyết một cách phù hợp với văn hóa chính trị và thực tiễn đất nước.
Vì vậy, để giải quyết một cách nhuần nhuyễn, hài hòa mối quan hệ này sao cho vừa phát huy được vai trò của tập thể, phát huy dân chủ, vừa phát huy vai trò của cá nhân người lãnh đạo, quản lý, không có cách nào khác, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực cả từ bên trong và từ bên ngoài Đảng, từ bên trong và bên ngoài Nhà nước và hệ thống chính trị nói chung. Mặt khác, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nhất là với người đứng đầu cấp ủy.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 217.
Theo Tạp chí Lý luận chính trị điện tử
Kiều Trang tổng hợp
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/nhung-diem-moi-trong-van-de-kiem-soat-quyen-luc-o-viet-nam-hien-nay-a8112.html