Ngày 24/01/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, tổng kết sâu sắc cả về thực tiễn và lý luận 15 năm thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 05/8/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc ban hành Nghị quyết đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với thành phố Hải Phòng. Bộ Chính trị đã xem xét toàn diện các yếu tố trước mắt và lâu dài, các mối quan hệ giữa thành phố với các địa phương khác trong vùng và cả nước, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Hải Phòng trong sự phát triển chung của đất nước… Từ đó, đề ra chủ trương phát triển thành phố Hải Phòng với hệ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, cụ thể và các nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát huy những tiềm năng, lợi thế của Hải Phòng thành nguồn lực cho thực hiện các mục tiêu phát triển. Thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW, việc cải thiện môi trường đầu tư (MTĐT) là vấn đề cấp thiết hàng đầu của Hải Phòng.
1. Quan điểm và mục tiêu của Đảng về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng
Tại Nghị quyết số 45-NQ/TW, Bộ Chính trị xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo là:
Xây dựng và phát triển Hải Phòng trên cơ sở khai thác hiệu quả các lợi thế, tiềm năng, mối tương quan, liên kết với các tỉnh ven biển Bắc Bộ, khu vực đồng bằng sông Hồng, các tỉnh phía Bắc và kết nối quốc tế. Hải Phòng không chỉ là một cực phát triển quan trọng trong tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh mà còn là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước.
Chú ý giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển nhanh và bền vừng; giữa kế thừa và phát triển; giữa phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó phát triển theo chiều sâu là chủ đạo, để Hải Phòng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước, sớm trở thành thành phố công nghiệp gắn với cảng biển phát triển hiện đại, thông minh, bền vững với những ngành mũi nhọn như kinh tế biển, cơ khí chế tạo, chế biến, điện tử, dịch vụ logistics, khoa học và công nghệ biển.
Các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Hải Phòng phải gắn liền với mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, sinh thái; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân; chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ công nhân Hải Phòng thực sự là lực lượng tiên phong trong ông nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách có tính đột phá, khả thi cao, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi, có khả năng cạnh tranh cao, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Chú trọng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, truyền thống cách mạng của các tầng lóp nhân dân Hải Phòng.
Bộ Chính trị xác định mục tiêu xây dựng và phát triển Hải Phòng thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước; có công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững; kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không; trọng điểm dịch vụ logistics; trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế biển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở châu Á; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Trong đó, cụ thể đến năm 2025: Hải Phòng cơ bản hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đạt các tiêu chí đô thị loại I; trở thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại; là trọng điểm kinh tế biển của cả nước, trung tâm dịch vụ logistics quốc gia, trung tâm đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ biển của cả nước, trung tâm nghề cá, dịch vụ hậu cần nghề cá và tìm kiếm cứu nạn khu vực phía Bắc; Cát Bà, Đồ Sơn cùng với Hạ Long trở thành trung tâm du lịch quốc tế. Hoàn thành việc di chuyển trung tâm hành chính thành phố sang phía Bắc sông Cấm; xây dựng chính quyền đô thị với bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Đến năm 2030, hải Phòng trở thành thành phố công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững tầm cỡ khu vực Đông Nam Á; trung tâm dịch vụ logistics quốc tế hiện đại bằng cả đường biển, đường hàng không, đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao; trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ với các ngành nghề hàng hải, đại dương học, kinh tế biển. Cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại đặc biệt. Hoàn thành việc chuyển đổi 50% số huyện thành đơn vị hành chính quận. Chính quyền đô thị được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của thành phố thông minh.
Tầm nhìn đến năm 2045: Hải Phòng trở thành thành phố có trình độ phát triển cao trong nhóm các thành phố hàng đầu châu Á và thế giới1.
2. Thực trạng môi trường đầu tư của thành phố Hải Phòng
Môi trường đầu tư (MTĐT) được hiểu là bao gồm các yếu tố, điều kiện về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường và cả các lợi thế của một quốc gia có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư tại một quốc gia, là tập hợp các yếu tố đặc thù địa phương đang định hình cho các cơ hội và động lực giúp doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất, trên cơ sở đó làm tăng thu nhập. Trong xu thế hội nhập sâu rộng, với sự tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xây dựng, cải thiện MTĐT có ý nghĩa, vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần tạo cơ hội, thúc đẩy đầu tư phát triển nhanh, tạo động lực cho hoạt động đầu tư hiệu quả của mọi doanh nghiệp, mở rộng hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội.
Hải Phòng là thành phố lớn, có lợi thế của thành phố là cảng biển, hạ tầng và truyền thống hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, việc nâng cao hiệu quả cải thiện MTĐT càng trở nên thiết yếu. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng bộ thành phố đã quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, để hoạch định chủ trương về xây dựng, cải thiện môi trường đầu tư, nhằm thu hút, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.
Các cấp ủy đảng đã triển khai đồng bộ các nhiệm vụ liên quan trực tiếp và gián tiếp về xây dựng, cải thiện MTĐT, hình thành môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh hơn, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, thông lệ, cam kết, chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV nhiệm kỳ 2015 - 2020, lần thứ XVI nhiệm kỳ 2020 - 2025, Thành ủy đã chỉ đạo quán triệt, thực hiện xây dựng, cải thiện MTĐT một cách đồng bộ, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển thành phố từng giai đoạn.
Nhờ đó, trong những năm qua, MTĐT, hoạt động sản xuất kinh doanh của Hải Phòng được cải thiện mạnh mẽ, việc huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển đạt mức cao.
Trong 5 năm 2015 - 2020, Hải Phòng thu hút đầu tư đạt 564.295 tỷ đồng, gấp 3 lần 5 năm trước đó.Trong đó, vốn khu vực ngoài nhà nước và FDI đạt 532.150 tỷ đồng, gấp 6,14 lần so với nhiệm kỳ trước. Vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 9,41 tỷ USD, gấp 1,23 lần nhiệm kỳ trước. Chủ trương đổi mới công tác đầu tư, khơi thông mọi tiềm năng, huy động mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển đã đạt bước đột phá quan trọng với cơ cấu vốn đầu tư chuyển mạnh theo hướng xã hội hóa. Vốn đầu tư từ nguồn lực xã hội chiếm khoảng 90%, vốn đầu tư từ ngân sách là 10%2.
Từ nguồn vốn đầu tư phát triển huy động được, Hải Phòng đã phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trước hết là kết cấu hạ tầng giao thông. Cùng với không gian đô thị, thành phố Hải Phòng triển khai đồng bộ kết cấu hạ tầng với những bước phát triển đột phá mới.
Trong tổng thể kinh tế - xã hội của Hải Phòng, ba trụ cột kinh tế (công nghiệp công nghệ, cảng biển - logistics, du lịch - thương mại) có bước phát triển vượt bậc và đóng góp quan trọng nhất cho sự phát triển của thành phố. Trong đó, ngành công nghiệp được điều chỉnh cơ cấu, phát triển theo hướng công nghiệp công nghệ cao, thân thiện môi trường, với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng bình quân 20,64%/năm, gấp 2,12 lần giai đoạn 2010 - 2015 và hơn hai lần tốc độ tăng chung của cả nước. Cảng biển quốc tế Hải Phòng đã đưa vào vận hành hai bến khởi động, đủ khả năng tiếp nhận tàu có tải trọng 200 nghìn tấn.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng, cải thiện MTĐT Hải Phòng cũng còn những hạn chế: Chưa ban hành được nhiều cơ chế, chính sách có tính đột phá, làm đòn bẩy để tạo ra những nguồn lực mới, những chuyển biến mang tính bước ngoặt, thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội. Công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước của một số cấp, ngành, địa phương, cơ sở còn yếu kém, nhất là trong các lĩnh vực quản lý về xây dựng MTĐT, quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường. Một số ngành kinh tế phát triển chưa tương xứng với lợi thế, tiềm năng của thành phố.
2. Mục tiêu và một số giải pháp
Hải Phòng xác định mục tiêu giai đoạn 2020 - 2025 tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 1.200 nghìn tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đến năm 2025 đạt 35 tỷ USD. Sản lượng hàng hóa thông qua các cảng trên địa bàn năm 2025 đạt 300 triệu tấn3. Để thực hiện có hiệu quả công tác cải thiện MTĐT, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2020 - 2025, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với việc xây dựng, cải thiện môi trường đầu tư
Tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, tổ chức đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của việc xây dựng môi trường đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong hoạch định chủ trương, chỉ đạo, tổ chức xây dựng, cải thiện MTĐT. Bởi chỉ có trên cơ sở nhận thức đúng, thì mới có những đầu tư thỏa đáng trong hoạch định chủ trương, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng MTĐT hiệu quả.
Thực tế, trước năm 2005, nhận thức của các chủ thể, các lực lượng liên quan xây dựng MTĐT chưa đầy đủ, coi việc xây dựng MTĐT chỉ là của một số ít ngành, cơ quan chức năng nhà nước. Do vậy, việc xác định nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong xây dựng, cải thiện môi trường, thu hút đầu tư phải được đặt lên nhiệm vụ hàng đầu của cả hệ thống chính trị.
Nhiệm vụ này cần được quán triệt sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị, được tuyên truyền tới toàn thể đội ngũ cán bộ lãnh đạo thành phố, lãnh đạo các sở, ngành, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên để nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận về vai trò của xây dựng MTĐT đối với phát triển kinh tế - xã hội; sự thống nhất nhận thức về thực trạng của môi trường đầu tư và sự cần thiết phải xây dựng, cải thiện MTĐT để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuyên truyền giúp nhân dân nhận thức rõ mục tiêu của thu hút đầu tư để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đặc biệt, phải tuyên truyền để thống nhất trong cấp ủy, chính quyền các cấp và nhân dân các nội dung chủ yếu liên quan đến MTĐT nhằm thực hiện tốt quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng giải phápmà Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định, đó là: “Xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách có tính đột phá, khả thi cao, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi, có khả năng cạnh tranh cao, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Chú trọng đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố Hải Phòng”4.
Trước hết là thực hiện các mục tiêu đến năm 2025 đã được Đại hội Đảng bộ thành phố xác định: “Đến năm 2025, thành phố Hải Phòng cơ bản hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trở thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại; là trọng điểm phát triển kinh tế biển, trung tâm du lịch quốc tế; hoàn thành các tiêu chí đô thị loại I… tạo nền tảng vững chắc để trở thành thành phố công nghiệp phát triển hiện đại, văn minh, bền vững tầm cỡ khu vực Đông Nam Á vào năm 2030”5.
Tuyên truyền vận động để cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức rõ hiệu quả của nền sản xuất nông nghiệp hiện nay là rất thấp, do vậy, cùng với giữ vững kinh tế nông nghiệp bảo đảm an ninh lương thực, cần thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tăng cường tuyên truyền, phổ biển, giáo dục chính sách, pháp luật liên quan đến cải thiện MTĐT, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh bằng nhiều hình thức trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, hỗ trợ doanh nghiệp. Tăng cường tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức, làm thay đổi tư duy, nhận thức, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức từ lãnh đạo thành phố tới các sở, ban, ngành, chính quyền các cấp về thu hút đầu tư là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Hai là, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách là một trong những nội dung quan trọng để xây dựng MTĐT thuận lợi. Thông qua đó, các chủ đầu tư nắm được thực trạng cơ sở hạ tầng, những vấn đề ưu đãi đối với các ngành, lĩnh vực, những khó khăn và hướng phát triển của lĩnh vực, ngành mà chủ thể có ý định đầu tư. Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Không ngừng cải thiện, tạo lập môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh có sức hấp dẫn, cạnh tranh cao. Đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút đầu tư, nhất là theo hình thức hợp tác công - tư (PPP)… Nghiên cứu thực hiện thí điểm một số cơ chế, chính sách mới, có tính đột phá, đặc thù cho thành phố Hải Phòng, đặt trong mối tương quan hợp lý với các thành phố lớn khác trong cả nước; thực hiện phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm của chính quyền địa phương, người đứng đầu trong một số lĩnh vực như quản lý quy hoạch, đất đai, quản lý đô thị, đầu tư, tài chính - ngân sách, tổ chức, nhân sự và tiền lương”6.
Cụ thể hóa Nghị quyết của Bộ Chính trị, Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã nêu rõ: Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố; tiếp tục tăng cường kỷ cương thu, chi ngân sách, cải thiện MTĐT kinh doanh; khơi dậy mọi tiềm năng, lợi thế, thu hút nguồn lực tập trung phát triển đột phá hạ tầng giao thông, đô thị, ba trụ cột kinh tế của thành phố. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững. Thu hút các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, giữ vai trò dẫn dắt, có sức lan tỏa đầu tư vào thành phố. Chủ động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có chọn lọc, phù hợp với định hướng cơ cấu nền kinh tế và yêu cầu phát triển bền vững.
Thành phố xác định cần tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện tốt và giám sát việc thực thi pháp luật như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật môi trường... và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Cải thiện môi trường pháp lý trong quá trình thực thi pháp luật, đó là tiến hành triển khai cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư phù hợp với thực tiễn, đặc thù của địa phương.
Kết hợp với các khung quy định của cấp trên, thành phố chủ động triển khai xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách và các công cụ hỗ trợ liên quan đến đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư của cấp chính quyền. Đồng thời, tổng kết thành dữ liệu đầu tư theo các chuyên đề: chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư liên quan đến chi phí thuê lao động, thuế tiếp cận đất đai, chế độ hưởng chi phí giải phóng mặt bằng...; lĩnh vực đầu tư trong các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu công nghệ cao...; vùng được hưởng chế độ ưu tiên.
Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao tính minh bạch và chất lượng thực thi công vụ và hiệu quả cải thiện môi trường đầu tư
Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “cải cách hành chính, đặc biệt là trong các lĩnh vực cấp phép đầu tư, tiếp cận đất đai và các nguồn lực, dịch vụ tài chính - ngân hàng, thủ tục hải quan, cải cách thuế quan, giảm tối đa chi phí logistics, minh bạch hóa công tác thanh tra, kiểm tra”7. Đồng thời, Bộ Chính trị yêu cầu phát triển mạnh các thành phần kinh tế để tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế; Tập trung thực hiện sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu thông qua tạo lập MTĐT thuận lợi, tránh việc cạnh tranh dẫn đến cắt giảm thuế, phí quá mức, gây bất bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, gây thất thoát ngân sách nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, thành phố Hải Phòng đã “quyết liệt trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, trọng tâm là đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử, nâng cao chất lượng công vụ của bộ máy hành chính. Phấn đấu Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu trong việc xây dựng chính quyền điện tử, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, cởi mở, thông thoáng”8.
Trong đó, tập trung thực hiện phát triển hạ tầng số đồng bộ, hiện đại và cung cấp các dịch vụ giải pháp, hệ thống thông tin nền tảng số… để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi từ chính quyền điện tử sang chính quyền số, đáp ứng nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức, công dân trên địa bàn thành phố.
Cùng với đó, thực hiện cung cấp các dịch vụ giải pháp, hệ thống thông tin nền tảng số; triển khai thí điểm mô hình chuyển đổi số trong một số cơ quan, đơn vị giúp đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi từ chính quyền điện tử sang chính quyền số thành phố Hải Phòng, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, cởi mở, thông thoáng. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững. Thu hút các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, giữ vai trò dẫn dắt, có sức lan tỏa đầu tư vào thành phố. Chủ động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có chọn lọc, phù hợp với định hướng cơ cấu nền kinh tế và yêu cầu phát triển bền vững.
Phát huy tốt vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền đẩy mạnh cải cách hành chính. Hằng năm, các cấp ủy đảng và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính của địa phương, cơ quan, đơn vị mình một cách phù hợp, cụ thể, quyết liệt và hiệu quả; gắn thực hiện cải cách hành chính nhà nước với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
1, 4, 6, 8. Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2, 3. Cổng thông tin điện tử thành phố Hải Phòng: Hải Phòng nỗ lực đổi mới, https://haiphong.gov.vn/tin-tuc-su-kien/Hai-Phong-no-luc-doi-moi-53744.html.
5, 7. Đảng bộ thành phố Hải Phòng: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XV nhiệm kỳ 2020 - 2025, Hải Phòng, 2020.
Theo Tạp chí Lý luận chính trị điện tử
Phạm Hương tổng hợp