Chủ trương của Đảng về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về dân chủ theo cách rất dễ hiểu: Dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Người còn nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”1. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, Điều 3 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”2.
Trong tiến trình đổi mới, việc vi phạm dân chủ ở nông thôn khi nhân dân tham gia đóng góp xây dựng hạ tầng đường, trường, trạm... đã không được bàn bạc, mức đóng góp quá sức dân, gây bức xúc trong nhân dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, gây nên tình trạng mất an ninh trật tự ở một số địa phương. Trước tình hình đó, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó nhấn mạnh: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”3, nhằm cụ thể hóa phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” bảo đảm dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các Nghị quyết số 45/1998, Nghị quyết số 55/1998, Nghị quyết số 60/1998, Pháp lệnh số 34/2007 và Chính phủ ban hành các Nghị định số: 29/1998, 71/1998, 07/1999, 79/2003, 87/2007 về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn đã tạo ra cơ chế cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân.
Trong từng thời kỳ cách mạng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kế thừa, bổ sung và phát triển nhận thức về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cho phù hợp với tình hình thực tiễn, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; là khâu quan trọng, then chốt trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Ngày 22-6-2000, Bộ Chính trị ban hành Thông báo số 304-TB/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tiếp sau đó, ngày 04 - 05/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) tổ chức Hội nghị toàn quốc sơ kết việc thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị giai đoạn 1998 - 2001. Đến ngày 28/3/2002 Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Ngày 28 - 29/9/2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị và ban hành Thông báo số 159-TB/TW kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đến ngày 04/3/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) ban hành Kết luận số 65-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII). Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong thời kỳ mới, ngày 07/01/2016, Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Kết luận số 120-KL/TW về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Nhân dân làm chủ”, “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân” và tập trung làm rõ tình hình, phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đồng thời, khẳng định: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”4.
Đại hội XIII kế thừa và phát triển tư tưởng “trọng dân” trong truyền thống lịch sử của dân tộc, bài học “dân là gốc” tiếp tục được phát triển bổ sung nội dung “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” vào phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để tạo thuận lợi, có cơ sở chính trị, pháp lý tổ chức thực hiện, mở rộng, tăng cường, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân.
“Dân giám sát” là nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công việc thực hiện. Nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật không. Giám sát bằng hình thức, phương pháp cụ thể, thường xuyên, theo nội dung công việc, trực tiếp, hoặc gián tiếp.
“Dân thụ hưởng” là nhân dân được nhận, thụ hưởng thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Nhân dân thụ hưởng lợi ích, giá trị dẫn tới xã hội có trật tự, kỷ cương, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng thời nhân dân thấy được mục đích, động lực thực sự, cuối cùng của chủ trương, chính sách, pháp luật mà Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện đều vì con người, vì nhân dân, lan tỏa giá trị tiến bộ, nhân văn, phẩm giá con người, bản chất của chế độ xã hội. Đó là động lực, là lợi ích, lợi ích phải hài hòa tổng thể lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
Bài học “dân là gốc”, phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó tạo thuận lợi, có cơ sở chính trị, pháp lý tổ chức thực hiện, mở rộng, tăng cường, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân. Sự phát triển, hoàn thiện đó có ý nghĩa thiết thực, quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”5.
Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị - xã hội, tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (Luật số 10/2022/QH15). Luật gồm 6 chương, 91 điều, trong đó quy định việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức sử dụng lao động.
Luật nêu rõ quyền của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở như sau:
- Được công khai thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời theo quy định của pháp luật.
- Đề xuất sáng kiến, tham gia ý kiến, bàn và quyết định đối với các nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Kiểm tra, giám sát, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các quyết định, hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
- Được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là phương thức phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được thông tin, thể hiện ý chí, nguyện vọng, chính kiến của mình thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, cần tập trung một số nhiệm vụ sau:
Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền việc đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phải cụ thể: Xây dựng cơ chế thông tin đa chiều, thực hiện minh bạch, công khai thông tin, đáp ứng quyền được thông tin của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Đa dạng hóa phương pháp, hình thức tuyên truyền theo hướng tăng cường đối thoại, trao đổi, tương tác phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng. Hiện đại hóa và sử dụng các phương tiện tuyên truyền hiện đại, nhiều chức năng, dịch vụ, tiện ích nhằm góp phần hữu ích, thiết thực trong việc tương tác, chia sẻ. Do vậy, cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy các cấp phải thực sự gương mẫu trong việc chấp hành các nguyên tắc tập trung dân chủ, trong thực hiện nhiệm vụ đảng viên, trong sinh hoạt, lối sống… Đồng thời, kịp thời phê phán những biểu hiện cực đoan, lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, kích động, lôi kéo quần chúng phục vụ cho “lợi ích nhóm”, lợi ích cá nhân, đồng thời cần khắc phục, chấm dứt những việc làm mang tính dân chủ hình thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý Nhà nước để bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy các cấp trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hành dân chủ; phát huy hiệu lực, hiệu quả vai trò các cơ quan, tổ chức trong thực hành dân chủ; tổ chức bộ máy gọn nhẹ, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy nhà nước phải được lựa chọn theo những tiêu chí cụ thể và công khai, có uy tín trong nhân dân, có năng lực, bảo đảm liêm, chính.
Ba là, phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Sự nghiệp đổi mới đất nước đặt ra yêu cầu phải phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, không ngừng đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng Đảng và bộ máy chính quyền các cấp thật sự trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên kiện toàn tổ chức, bộ máy theo hướng tinh gọn, phù hợp với các chức năng, vai trò và nhiệm vụ; nâng cao chất lượng hoạt động theo hướng hiệu quả, thiết thực, khắc phục triệt để tình trạng phô trương, hình thức; đổi mới phương thức hoạt động, bảo đảm đúng tôn chỉ, mục đích, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở; bảo đảm lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tăng cường giám sát việc lãnh đạo và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, việc tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân của chính quyền các cấp nhằm giải đáp nguyện vọng, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, đạo đức cách mạng trong sáng, chí công vô tư trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Để thực hành dân chủ, công tác cán bộ là một trong những khâu quan trọng và mang tính quyết định nhất. Do đó, cần: Nâng cao nhận thức cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về vai trò của việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng; nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay. Kết hợp thực hiện các biện pháp cụ thể về tổ chức quản lý, hành chính, pháp luật và đề cao sức mạnh của dư luận xã hội. Kiên quyết đấu tranh, xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối loạn nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, có nhận thức đầy đủ các quan điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, về thực hiện dân chủ trong Đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Mỗi cán bộ đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đã được quy hoạch đều có cơ hội và điều kiện như nhau để có thể phát huy tốt những phẩm chất, năng lực của mình trong tuyển dụng, tuyển chọn vào các chức danh lãnh đạo, quản lý.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 232.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 4.
3. Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 169.
5. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân Dân, ngày 17/5/2021.
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Thu Hằng tổng hợp
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/de-thuc-hien-tot-quy-che-dan-chu-o-co-so-a8029.html