1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”1 là một trong những chủ trương để đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới một cách nhanh chóng, toàn diện và bền vững.
Đội ngũ trí thức, với trình độ học vấn cao là những người có khả năng sáng tạo tri thức khoa học mới; đồng thời, có khả năng truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn, góp phần tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Ph. Ăngghen nhận định: “sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ sư, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa”2. Do đó, đội ngũ trí thức có vai trò hết sức to lớn trong quản lý nhà nước, quản lý toàn bộ nền sản xuất xã hội, góp phần thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài”3. Chính vì vậy, trong kháng chiến cũng như trong xây dựng, những trí thức chân chính, cách mạng thực sự là “vốn liếng quý báu của dân tộc”. Không có những trí thức đó “thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”.
2. Để đạt mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI “nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, đòi hỏi phải phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực. Trong đó, việc phát huy tinh thần cống hiến, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng. Bởi vì:
Thứ nhất, tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước thuộc về ý thức xã hội và được tồn tại, phát triển thông qua ý thức của mỗi cá nhân
Sống trong môi trường xã hội, con người mang bản chất xã hội. Song, mỗi con người lại sống trong một nhóm xã hội, một tầng lớp xã hội khác nhau, bằng những công việc, nghề nghiệp khác nhau nên họ có dấu ấn nghề nghiệp, nhóm, tầng lớp xã hội riêng mà mình sinh sống. Người trí thức cũng mang trong mình dấu ấn nghề nghiệp của đội ngũ trí thức và dấu ấn đó tồn tại, phát triển trong từng cá nhân và được “xã hội hóa” trong đội ngũ trí thức. Do đó, phát huy tinh thần cống hiến, khả năng sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước của đội ngũ trí thức là điều hoàn toàn cần thiết để xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, người trí thức luôn có khát khao và nguyện vọng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân
Trong mọi giai đoạn, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, đội ngũ trí thức Việt Nam người tham gia nghiên cứu khoa học hay tham gia đào tạo nguồn nhân lực; dù là người tham gia công tác lãnh đạo, quản lý hay hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh... luôn có nhu cầu và nguyện vọng nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ vào thực tiễn, mang lại giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Nhiều trí thức đã không quản khó khăn, vất vả, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình để cống hiến, phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Trong điều kiện của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, người trí thức luôn có nhu cầu nghiên cứu, học tập, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để được cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân. C. Mác và Ph. Ăngghen từng nói: “Một khi “tư tưởng” tách rời “lợi ích” thì nhất định nó sẽ tự làm nhục nó”4, nhưng so với nhu cầu vật chất thì nhu cầu và nguyện vọng thực hiện chức năng trí thức, chức năng người đại diện cho trí tuệ của dân tộc ở người trí thức cao hơn rất nhiều. Nói cách khác, người trí thức chân chính bao giờ cũng trọng danh hơn trọng lợi. Đây là niềm vinh dự, là bổn phận của đội ngũ trí thức Việt Nam trước vận mệnh và tương lai của Tổ quốc, của dân tộc.
Thứ ba, phát huy tinh thần cống hiến, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước giúp cho đội ngũ trí thức Việt Nam có động lực nâng cao trình độ chuyên môn, góp phần nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc
Trong điều kiện ngày nay, sự phát triển bền vững của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển khoa học - công nghệ của quốc gia đó. Chính vì vậy, tại Đại hội XIII, Đảng đã coi phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ là một trong những động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Để phát triển khoa học - công nghệ đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó trí thức là lực lượng nòng cốt. Vì vậy, một trong những đột phá chiến lược tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng là: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao… đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”5.
Trong nhiều năm qua, trí thức Việt Nam đã “từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới”6. Đội ngũ trí thức Việt Nam đã trực tiếp tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nhiều công trình khoa học và một số sáng chế, sáng kiến được trí thức Việt Nam sáng tạo ra. Đây là một trong những thành tựu quan trọng khẳng định tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, phát huy tinh thần cống hiến, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, đội ngũ trí thức Việt Nam có những đóng góp tích cực vào xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước
Với tư cách là “trí thức hoàn toàn”, không phải “trí thức một nửa… trí thức học sách”7, người “đại diện cho trí tuệ của dân tộc”8, đội ngũ trí thức Việt Nam - đặc biệt là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành - những người có khả năng cao trong nắm bắt xu thế, quy luật vận động và phát triển của lịch sử; nắm bắt được bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - có những đóng góp tích cực vào xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; góp phần trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Thứ năm, phát huy tinh thần cống hiến, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước giúp cho đội ngũ trí thức Việt Nam có nhiều phát minh, sáng chế có giá trị thực tiễn, giá trị khoa học, giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao
Sáng tạo là một trong những đặc trưng hoạt động của trí thức. Sáng tạo trong tư duy, trong cách làm sẽ giúp cho đội ngũ trí thức có những đóng góp quan trọng vào thúc đẩy khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội phát triển. Không ít công trình, phát minh, sáng chế đã được công bố có giá trị đã ra mắt bạn đọc; không ít cuốn sách khoa học lý luận chính trị được độc giả nồng nhiệt đón nhận... là kết quả của những sáng tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa X), Đảng ta khẳng định: “Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”9.
Để đạt mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải có một quyết tâm chính trị cao; sự đồng sức, đồng lòng của toàn xã hội. Trong đó, phát huy tinh thần cống hiến, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của đội ngũ trí thức Việt Nam - lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Muốn vậy, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay “khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”10.
Để phát huy tinh thần cống hiến, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước của đội ngũ trí thức, Đảng ta đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về phát triển đội ngũ trí thức, phát triển khoa học và công nghệ. Trong đó có, Nghị quyết số 02-NQ/TW, ngày 24/12/1996 (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000; Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế v.v… Công tác vận động trí thức và các lĩnh vực hoạt động của trí thức cũng được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước. Đây là các văn bản chính thức, tạo khung khổ pháp lý cho việc thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học, nhất là nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới đất nước, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về chính sách phát triển và bảo vệ đất nước trong giai đoạn mới... các chủ trương, chính sách đối với trí thức đã tạo động lực to lớn, niềm tin vững chắc để người trí thức phát huy tinh thần cống hiến, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hai là, hoàn thiện môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức hoạt động. Con người nói chung, người trí thức nói riêng sống, hoạt động trong môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế - xã hội nhất định. Các loại môi trường này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống cũng như hiệu quả hoạt động sáng tạo của con người.
Việc ban hành và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các quy chế, nhất là quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học - công nghệ đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi để người trí thức có cơ hội cống hiến ngày càng nhiều cho sự phát triển đất nước một cách bền vững.
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thể hiện sự coi trọng việc thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng: “Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức”11.
Ba là, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng, nhiều tri thức có trình độ cao và có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của đất nước.
Để phát huy hơn nữa tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước của đội ngũ trí thức, Đại hội XIII của Đảng đã định hướng cần chỉ đạo phải tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, thực hiện tốt các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, “Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng”12. Đây là sự tiếp nối truyền thống coi trọng người hiền tài - nguyên khí quốc gia của ông cha ta. Do đó, các lĩnh vực mà trí thức đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, như giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được Đảng ta xác định là “quốc sách hàng đầu”.
Bốn là, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm khoa học, bảo vệ các quyền này là bảo vệ lợi ích chính đáng của trí thức trong quá trình chuyển giao các thành tựu nghiên cứu khoa học, các phát minh, sáng chế và khuyến khích đội ngũ này tiếp tục cống hiến cho khoa học thông qua công bố, xã hội hóa các kết quả nghiên cứu. Quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, lợi ích chính đáng (cả về vật chất lẫn tinh thần) của người sáng tạo được bảo vệ, sẽ kích thích, khơi dậy khát vọng cống hiến cho đất nước của trí thức.
Năm là, coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tổ chức các diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của đội ngũ trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện; phê phán và xóa bỏ sự coi nhẹ, thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng của trí thức, nhất là trí thức đầu ngành, các nhà khoa học và công nghệ có trình độ cao.
Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là “Chủ động tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các chương trình, dự án, đề án lớn về phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, kinh tế - xã hội trước khi cấp có thẩm quyền quyết định”.
Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”13.
Trong mọi thời kỳ, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo và truyền bá tri thức, là đại diện cho trí tuệ của dân tộc, có những đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong việc nâng cao trình độ khoa học - công nghệ của đất nước; trong xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; trong đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; trong sáng tạo những công trình có giá trị về khoa học, tư tưởng và nghệ thuật v.v..
Để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, để cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu... Do đó, chúng ta phải xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, có đạo đức và trách nhiệm trong giáo dục - đào tạo, trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt, cần phát huy cao độ tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1, 5. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 47, 203-204, 104.
10, 11, 12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 167.
2, 4. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 22, tr. 613; t. 2, tr. 122.
3, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 184, 275.
6, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 83, 82.
8. Đỗ Mười: Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 237.
Theo Tạp chí Lý luận chính trị điện tử
Phạm Hương tổng hợp