Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước kiến tạo, phục vụ hiện nay

CT&PT - Nói đến nhà nước kiến tạo, phục vụ là nói đến vai trò trung tâm của Nhà nước trong việc kiến tạo các đường lối, chủ trương, chính sách, tạo môi trường, điều kiện để mọi cá nhân, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có thể phát huy năng lực, sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và cho cả dân tộc. Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong tổ chức mô hình nhà nước và dựa vào điều kiện cụ thể, đặc thù của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng mô hình nhà nước riêng với tiêu chí hàng đầu là nhà nước kiến tạo, thật sự vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiến tạo, phục vụ 

Theo Hồ Chí Minh, nhà nước kiến tạo, phục vụ đó là Nhà nước luôn đặt lợi ích nhân dân lên hàng đầu, xem đó là định hướng xuyên suốt quy định từ việc tổ chức quyền lực nhà nước đến ban hành và thực hiện chủ trương, chính sách cụ thể. Để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới, được đảm bảo đầy đủ và thực chất các quyền con người cơ bản, có đời sống tinh thần lành mạnh, được tự do sáng tạo, tự do tạo lập cuộc sống và ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần là mục tiêu cao nhất, là nhiệm vụ cốt yếu của Nhà nước. Bởi vậy, ngay trong những ngày tháng chuẩn bị gấp rút Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã chuẩn bị điều kiện cần thiết cho sự ra đời của một chế độ mới ở Việt Nam với mục tiêu “Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”1. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, với triết lý "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"2, Hồ Chí Minh đã lập tức chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện những nhiệm vụ nhằm xây dựng chế độ mới, làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc trên thực tế, nhằm xứng đáng với công dân tự do của một nước độc lập. Trong phiên họp Chính phủ đầu tiên, Người nêu quan điểm: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”và chỉ thị: “Chúng ta phải làm sao thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân được học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là ở đó, đi đến để dân ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp tự do độc lập”4. Đó là những nguyên lý, nguyên tắc chỉ đạo trong suốt quá trình xây dựng nhà nước dân chủ mới ở nước ta - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo đó, giữ vững độc lập dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu bất biến hay như Hồ Chí Minh nói đó là “Cái mục đích chúng ta đi đến” của nhà nước dân chủ. Từ đó, Người đặc biệt lưu ý và yêu cầu các cơ quan Chính phủ trong mọi hoàn cảnh “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân... Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”5.   

Trong hoàn cảnh đất nước vừa giành độc lập, những tàn dư của chế độ cũ rất nặng nề, lại phải chuẩn bị những công việc cấp bách cho cuộc kháng chiến sắp bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo Chính phủ tập trung những công việc trước mắt là: chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; giảm thuế; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo đoàn kết... nhằm ổn định và bước đầu cải thiện đời sống nhân dân. Khi chiến tranh bùng nổ, trong điều kiện kháng chiến ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định từng công việc cụ thể, từng bước đi thích hợp như tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để nhân dân thoát nạn bần cùng, đồng thời xây dựng nền văn hóa mới cho nhân dân. Năm 1947, với bút danh Tân Sinh, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đời sống mới và phát động phong trào xây dựng đời sống mới cho nhân dân với lối sinh hoạt mới, nếp sống mới, lối sống văn hóa mới mà sợi chỉ đỏ xuyên suốt là Thi đua ái quốc nhằm mục đích “Diệt giặc đói - Diệt giặc dốt - Diệt giặc ngoại xâm” với cách làm “dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”6

Khi miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn đặt nhiệm vụ chăm lo và nâng cao đời sống nhân dân là một trong những ưu tiên hàng đầu. Người đặt ra mục tiêu khi xây dựng chủ nghĩa xã hội là “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”7, “là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”8

Nhà nước kiến tạo, phục vụ là nhà nước dám chịu và biết chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đó là trách nhiệm bảo đảm cuộc sống, đảm bảo quyền làm người, sự phát triển toàn diện của nhân dân cũng như sự phát triển chung của đất nước. Mọi thiết chế Nhà nước đều phải chịu trách nhiệm, nhất là Chính phủ bởi Chính phủ là cơ quan nắm cơ sở vật chất, tài sản, nhân lực của Nhà nước, trực tiếp và thường xuyên giải quyết những công việc liên quan những mặt đời sống của nhân dân. Bên cạnh coi trọng vai trò Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đại diện cho toàn dân, vai trò Tòa án trong bảo đảm thực thi pháp luật, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý xây dựng một Chính phủ mạnh, một Chính phủ coi trọng tính hiệu quả và thiết thực, một Chính phủ của toàn dân, liêm khiết, biết làm việc. Người nói: “Chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”9. Nếu dân đói, rét, bệnh tật thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được. Nếu Chính phủ đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, thì nhân dân “có quyền đuổi Chính phủ”.

Mặt khác, để tiến tới thực hiện chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có phẩm chất, có năng lực, có trình độ đảm nhiệm trọng trách mà nhân dân giao phó. Người xác định trách nhiệm của công chức Nhà nước với nhân dân trong Nhà nước kiểu mới là dù ở cấp bậc, thực hiện nhiệm vụ công tác nào đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết. Người nhắn gửi các nhân viên, cơ quan chính quyền các cấp “Chính phủ ta đã hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc. Trong việc kiến thiết nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một năm mà làm được hết. Song ngay từ bước đầu, chúng ta phải theo đúng phương châm”10. Đối với cán bộ tư pháp, trong buổi lễ tuyên thệ của lớp Thẩm phán đầu tiên, Người nhắc nhở Các ông là thẩm phán của dân, xử án vì dân. Hãy làm đúng khẩu hiệu mà tự mình đã viết lên kia: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư... Quan điểm này đã được thể hiện rõ trong quy định Hiến pháp về nghĩa vụ của cán bộ, nhân viên nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân. Đặc biệt, Hồ Chí Minh nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan nhà nước, mà chính Người làm gương trước “Nếu trong Chính phủ, có những người lầm lỡ thì lỗi ấy tôi xin chịu, xin gánh và xin lỗi đồng bào”11.

Là người trực tiếp chỉ đạo xây dựng nhà nước mới ngay từ buổi đầu thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng để có thể xây dựng Nhà nước kiến tạo. phục vụ, trước hết đó phải là một nhà nước dân chủ, nhà nước của dân và do dân. Trong một Nhà nước dân chủ, nhân dân làm chủ thì thuộc tính đó của Nhà nước phải được thể hiện trực tiếp ở thiết chế tổ chức và phương thức cơ bản thiết lập bộ máy Nhà nước phải là con đường bầu cử theo nguyên tắc trực tiếp, toàn dân. Người khẳng định “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra”12 và “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”13. Bằng phương thức đó mà tổ chức quyền lực nhà nước mang sức mạnh của nhân dân; làm cho quyền lực nhà nước được hình thành một cách chính thức và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, phải chịu sự kiểm tra, giám sát, định đoạt của nhân dân. Trong khi khẳng định vai trò chủ thể của nhân dân đối với Nhà nước, Hồ Chí Minh cũng luôn trăn trở một điều có ý nghĩa quyết định là: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”14. Người chỉ rõ, Nhà nước phải tìm cách hình thành các thiết chế dân chủ và đảm bảo thực thi quyền làm chủ của người dân trên thực tế. Đồng thời, nhân dân có quyền và nghĩa vụ phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước. 

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng thực hiện tất cả chính sách của Đảng và Nhà nước, có thể biến tất cả mục tiêu tốt đẹp thành hiện thực không ai khác là nhân dân. Trong nhân dân có nguồn lực tiềm tàng, vô tận về cả sức, tài, của. Bởi vậy, cần phát huy vai trò của nhân dân theo phương châm “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”15, Nhà nước thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết các vấn đề và phục vụ lợi ích của chính mình. Hay như Người từng nói: Đảng và Chính phủ không chỉ cần tiến hành “khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế”; “phát triển công tác vệ sinh, y tế”; “sửa đổi chế độ giáo dục”; “củng cố quốc phòng”..., mà còn phải động viên toàn dân, tổ chức, giáo dục ý thức làm chủ cho nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân và tạo điều kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của mình. Các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức phải biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân; phải kiên trì giáo dục, giác ngộ để dân tin, dân theo và đã là người cán bộ thì phải biết nêu gương, biết làm trước. Người cách báo về hiện tượng quan liêu xa dân, cửa quyền, tắc trách trong quan hệ với dân thì từ phía người dân sẽ có nơi, có lúc vô tổ chức, thiếu kỷ cương, vô pháp luật, vô chính phủ. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiến tạo, phục vụ đã hàm chứa triết lý xây dựng nền chính trị hiện đại và hướng tới phát triển bền vững ngày nay. Chỉ khi nhân dân hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc; được đáp ứng nhu cầu về vật chất và đời sống tinh thần, được đảm bảo quyền làm người và giá trị làm người của mình; được tự do phát triển trong một xã hội dân chủ, lành mạnh, tiến bộ thì đó mới là điều kiện vững chắc nhất giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước, giữ vững nền độc lập và sự phát triển phồn vinh của đất nước.

2. Xây dựng nhà nước kiến tạo, phục vụ trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay 

Tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và kết quả 35 năm đổi mới, Đảng có nhận định quan trọng về nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đất nước. Trong đó, đối với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng khẳng định những thành tựu đạt được “tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”16. Bên cạnh đó, Đảng thẳng thắn thừa nhận hạn chế, mà nổi bật là vấn đề cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện, vai trò giám sát nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; đổi mới Quốc hội, cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; sự phân cấp, phân quyền chưa thật sự rõ ràng, hiệu quả. Những hạn chế đó ảnh hưởng hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, gây cản trở nhất định thực hiện đầy đủ các quyền của nhân dân, tạo điều kiện cho các căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, lạm quyền… của cán bộ, công chức. Do vậy, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, có biện pháp khắc phục, sửa chữa nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng nhà nước dân chủ và tiến bộ, với mục tiêu cao nhất vì nhân dân.

Trên cơ sở nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh và nhìn nhận từ thực tiễn 35 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng rút ra 5 bài học lớn, trong đó bài học thứ 2 về dân thể hiện rõ nét sự kế thừa tư tưởng của Người khi bổ sung thêm hai vấn đề lớn “dân giám sát, dân thụ hưởng” trở thành một phương châm hoàn chỉnh“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hồ Chí Minh từng nêu phương thức, phương châm trong hoạt động của Đảng và Nhà nước là “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Làm lợi cho dân hay dân thụ hưởng chính là động lực to lớn cho sự phát triển, đặt nhân dân ở vị trí trung tâm của mọi chính sách và hoạt động của Đảng, Nhà nước, là sự thể hiện rõ nét đặc trưng bản chất của chế độ, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Đối với vấn đề Nhà nước, Đảng nên ra định hướng xây dựng Nhà nước “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”17. Để xây dựng nhà nước thực sự vì nhân dân, vấn đề nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; kiểm soát quyền lực nhà nước, chống các hiện tượng lạm quyền, lộng quyền, vi phạm quyền công dân, chống tham ô, tham nhũng trong bộ máy nhà nước được Đại hội đặt ra là một trong vấn đề cấp thiết. Đại hội nhấn mạnh đến các giải pháp là “tăng cường công khai minh bạch, trách nhiệm gắn với giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cá bộ, công chức, viên chức”18; đẩy mạnh đấu tranh phòng chống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; xác định rõ hơn vai trò, chức năng, vị trí, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được phân công. Điều này là sự kế tiếp và phát triển tư duy tiến bộ về xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng, trong đó quyền lực nhà nước (công quyền) phải được giới hạn, quy định rõ ràng, cụ thể, rành mạch trong quy định của pháp luật. Có xác định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan công quyền thì mới là căn cứ xác đáng để thực thi và bảo vệ quyền của người dân (dân quyền) trên thực tế, và hơn nữa là lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân “làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo”19 tổ chức và các hoạt động của nhà nước.

Đối với các nhánh quyền lực nhà nước, Văn kiện Đại hội nên ra những vấn đề trọng tâm, cần chú trọng đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời gian sắp tới. Đó là đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phát huy dân chủ pháp quyền, tăng tính chuyên nghiêp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội; tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Trong giai đoạn hiện nay, không chỉ tăng cường thực hiện cơ chế giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức - chính trị xã hội và nhân dân, mà cần phải “thiết lập đồng bộ” và “gắn kết” các cơ chế, giám sát của các chủ thể đó nhằm phát huy cao nhất quyền dân chủ của nhân dân.

Đối với Chính phủ, chú trọng xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính. Đáp ứng yêu cầu của Chính phủ hành động, Chính phủ phục vụ hay như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói là “Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc”20, giải pháp quan trọng đưa ra là “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm Chính phủ với các bộ ngành; giữa Chính phủ, các bộ ngành với các chính quyền địa phương, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn”21 và “nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả”22.

Đối với các cơ quan tư pháp, cần “xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”23. Hoạt động tư pháp có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con quyền. Do vậy, cần tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, xứng đáng là cơ quan giữ vai trò “trọng yếu” trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Đối với chính quyền địa phương, tiếp tục hoàn thiện tổ chức phù hợp với từng địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo. Vì chính quyền địa phương là cấp gần dân, trực tiếp giải quyết công việc hàng ngày, liên quan lợi ích thiết thực của nhân dân, nên cần đẩy mạnh phân cấp, nâng cao tính chủ động, tự chủ của địa phương, để các địa phương kịp thời giải quyết các vấn đề cụ thể phát sinh trong thực tiễn của địa phương mình.

Cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động và vấn đề quan trọng để xây dựng Nhà nước, tuy nhiên vấn đề có ý nghĩa quyết định để vận hành, hoạt động có hiệu quả trong bộ máy đó là đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi vậy, vấn đề trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. 

Có thể nói, tất cả yêu cầu đó đều toát lên tinh thần xây dựng Nhà nước kiến tạo thật sự gắn bó với dân, phụng sự lợi ích của nhân dân nhằm “không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”24 theo phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”25.


1. Văn phòng Quốc hội: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 1 (1945-1960), tr. 7.

2, 5, 13, 20, 25. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 64, 52, 153, 481, 51.

3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 175.

6, 10, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 556, 64, 81.

7,8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 30, 438.

9, 12, 14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518; t. 6, tr. 232; t.15, tr. 293.

11. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Phông Văn phòng Quốc hội, Hồ sơ lưu trữ số 04, tr. 10.

16, 19, 21, 24. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 71, 175, 176,  116.

17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. 118.

22, 23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. 177.

Theo Tạp chí Tuyên giáo điện tử

Lưu Thảo tổng hợp

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-xay-dung-nha-nuoc-kien-tao-phuc-vu-hien-nay-a7986.html