Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

CT&PT - Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh luôn được quan tâm, từng bước hoàn thiện, góp phần cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề này. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ cho việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới.

hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-quoc-phong-an-ninh-dap-ung-yeu-cau-nhiem-vu-trong-tinh-hinh-moi-chinh-tri-va-phat-trien-1-1691400883.jpg
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ với đại biểu và học viên của Học viện Quốc phòng.

Pháp luật về quốc phòng, an ninh là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật quốc gia, bao gồm các quy phạm pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất quốc phòng, an ninh liên quan đến bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; là sự thể chế hóa, cụ thể hóa về mặt pháp lý đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Đây là công cụ pháp lý quan trọng để thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh.

Hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh của Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật thuộc Hiến pháp, các luật và các văn bản dưới luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các quan hệ về quốc phòng, an ninh nảy sinh trong quá trình thực hiện chức năng của Nhà nước và xã hội; đồng thời, quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và quyền thiêng liêng, nghĩa vụ cao quý của công dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Các quy phạm pháp luật về quốc phòng, an ninh thường được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và trong các văn bản quy phạm pháp luật khác, tạo nên một chỉnh thể thống nhất, vừa phản ánh sự gắn kết chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, sự thống nhất hữu cơ của quốc phòng và an ninh, vừa phản ánh tính đặc thù nhất định.

Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh ở Việt Nam

Có thể khái quát quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh ở nước ta theo một số giai đoạn chính như sau:

Từ năm 1945 đến năm 1975:

Trong giai đoạn này, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là tập trung bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, chống thù trong, giặc ngoài, ổn định an ninh, trật tự, phát triển sản xuất, tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời chi viện sức người, sức của cho miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành độc lập dân tộc. Quốc hội đã ban hành 2 bản Hiến pháp (năm 1946 và năm 1959) nhằm thể chế hóa các quan điểm, nhiệm vụ của Đảng, trong đó quy định trực tiếp về quốc phòng, an ninh. Hiến pháp năm 1946 quy định: công dân có nghĩa vụ “bảo vệ Tổ quốc” (Điều thứ 4) và “phải đi lính” (Điều thứ 5). Nội dung này được phát triển cao hơn trong Hiến pháp năm 1959, theo đó, “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc” (Điều 42); “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội” (Điều 39); “Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc” (Điều 7); “Lực lượng vũ trang của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là của nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ tự do, hạnh phúc và sự nghiệp lao động hòa bình của nhân dân” (Điều 8).

Theo thống kê sơ bộ, giai đoạn này, có 7 luật và 4 nghị quyết của Quốc hội, 10 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuyên ngành về lĩnh vực quốc phòng, an ninh được ban hành, còn lại chủ yếu là nghị định, thông tư, sắc lệnh (trước năm 1953 chủ yếu là sắc lệnh). Trong đó, Nghị quyết của Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa I, ngày 26/3/1955, về vấn đề quốc phòng và Nghị quyết của Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa I, ngày 18/01/1957, về vấn đề đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, đã góp phần cổ vũ, động viên toàn thể nhân dân ta quyết tâm tiến hành cuộc kháng chiến, kiến quốc; Luật Quy định chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1958 và Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960 (sửa đổi năm 1962 và năm 1965) kịp thời động viên đông đảo thanh niên lên đường nhập ngũ, bảo vệ Tổ quốc; một số pháp lệnh, nghị định, thông tư, sắc lệnh về xây dựng Công an nhân dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cũng phát huy được hiệu quả, là công cụ trực tiếp quản lý xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội1.

Từ năm 1976 đến năm 1991:

Đây là giai đoạn đất nước đã hoàn toàn thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Các nghị quyết của Đảng tập trung vào hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh tại các kỳ đại hội trước đây tiếp tục được hoàn thiện và phát triển, nhất là từ sau Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Ngày 18/12/1980, Quốc hội ban hành Hiến pháp, trong đó dành một chương (Chương 4) quy định về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đồng thời, quy định cụ thể hơn về nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội2.

Thời gian này, công tác lập pháp tập trung vào sửa đổi Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (năm 1982 và năm 1991) để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, ban hành hơn 10 pháp lệnh và hàng trăm nghị định, thông tư về một số lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân... Bộ luật Hình sự năm 1985 tuy không phải là pháp luật chuyên ngành về quốc phòng, an ninh, nhưng quy định khá cụ thể về tội phạm, hình phạt, các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Chương 1); các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (Chương 11); các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (Chương 12), góp phần thiết thực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung.

Từ năm 1992 đến nay:

Đây là giai đoạn Đảng ta tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Ngày 15/4/1992, Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), trong đó có những quy định mới về “xây dựng công nghiệp quốc phòng” và “kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng” (Điều 48). Ngày 28/11/2013, Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (khoản 1, Điều 2); quy định cụ thể hơn về chế định bảo vệ Tổ quốc, bổ sung quy định về “xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh” (Điều 68)... Ngày 02/01/2014, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13, ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, theo đó, xác định cụ thể thời gian trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội 13 luật, 1 pháp lệnh về lĩnh vực quốc phòng, an ninh với thời hạn hoàn thành từ năm 2014 đến năm 2020.

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, nhất là quan điểm Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) về quốc phòng, an ninh và cụ thể hóa quy định có liên quan của Hiến pháp năm 2013, các nghị quyết chuyên đề khác của Bộ Chính trị3, số lượng văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về quốc phòng, an ninh được ban hành trong giai đoạn này tăng lên rõ rệt, với khoảng 40 luật, 23 pháp lệnh, 7 nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nhiều văn bản luật, dưới luật khác trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh về lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang trong giai đoạn mới, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự (năm 1994, 2005 và năm 2015), Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (năm 1999, 2014), ban hành Luật Công an nhân dân năm 2005 (sửa đổi năm 2015, 2018); đồng thời, từng bước luật hóa hầu hết pháp lệnh ban hành trước đây về xây dựng các thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, quản lý trật tự, an toàn xã hội để kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Trong số các luật được ban hành, có nhiều luật có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, như Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật An ninh quốc gia năm 2004; Luật Dân quân tự vệ năm 2009 (sửa đổi năm 2019); Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013; Luật An ninh mạng năm 2018; Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018; Luật Lực lượng dự bị động viên năm 2019; Luật Biên phòng Việt Nam năm 2020; Luật Cảnh sát cơ động năm 2022;... Ngoài ra, để khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trên thế giới, ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 130/2020/QH14, “Về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”, tạo cơ sở pháp lý cao hơn để triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quan trọng này.

Việc Quốc hội sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (vào các năm 2002, 2008, 2015 và năm 2020), với những quy định ngày càng cụ thể, chặt chẽ trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho thấy, đây là một trong những nội dung rất được quan tâm, góp phần nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, an ninh nói riêng. Lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ cũng thường xuyên quan tâm đến yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, khắc phục tình trạng “luật khung, luật ống”. Do đó, việc xây dựng pháp luật nói chung, trong đó có xây dựng pháp luật về quốc phòng, an ninh nói riêng của Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội đều thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng, chấp hành đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chất lượng, được đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành với số phiếu cao (trong đó, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 được 100% số đại biểu có mặt tán thành).

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-quoc-phong-an-ninh-dap-ung-yeu-cau-nhiem-vu-trong-tinh-hinh-moi-chinh-tri-va-phat-trien-2-1691400948.jpg
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua các luật, nghị quyết tại Kỳ họp bất thường lần thứ hai, Quốc hội khoá XV.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình an ninh chính trị trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường; các nước lớn tăng cường gây ảnh hưởng lẫn nhau, tranh chấp trên Biển Đông đã thu hút quyền lợi của nhiều bên. Ngoài các cuộc chiến tranh truyền thống, còn có chiến tranh phi truyền thống. Đối với nước ta, các thế lực phản động, thù địch luôn tăng cường âm mưu, hoạt động chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Những điều này đặt ra yêu cầu rất quan trọng cho chúng ta trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Kế thừa và phát triển quan điểm về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, xây dựng quốc phòng, an ninh tại các nghị quyết trước đó của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị4, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”5. Đây là các căn cứ chính trị quan trọng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh.

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 27/7/2021, Quốc hội khóa XV thông qua Nghị quyết số 16/2021/QH15, “Về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025”, trong đó xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số lực lượng, quân chủng, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng. Sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Không để bị động, bất ngờ, không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập; đấu tranh mạnh mẽ với các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Tổ chức, triển khai đồng bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh. Tăng cường bảo vệ, hỗ trợ hoạt động kinh tế biển, ngư dân bám biển, khai thác thủy sản hiệu quả. Tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại” và “Gắn kết chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”.

Ngày 14/10/2021, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 19-KL/TW, “Về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”, đề ra các mục tiêu, yêu cầu cụ thể và việc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật. Ngày 05/11/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15, “Triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”, nêu rõ mục đích, yêu cầu, trách nhiệm cụ thể đối với từng chủ thể trong công tác xây dựng pháp luật. Theo đó, xác định nhiệm vụ xây dựng 14 dự án luật và 1 dự án pháp lệnh chuyên ngành về lĩnh vực quốc phòng, an ninh với thời gian thực hiện cụ thể đối với từng nhiệm vụ, theo các nhóm lĩnh vực cơ bản sau: 1- Về củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân: Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân năm 2018 cho phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ; dự án Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) và dự án Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (sửa đổi) cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, tổ chức của Quân đội (hai dự án luật này đang được Bộ Quốc phòng tiến hành tổng kết); 2- Hoàn thiện các thiết chế của Hiến pháp năm 2013: Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước với vai trò là thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; dự án Luật điều chỉnh về tình trạng khẩn cấp; 3- Về củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh: Dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; dự án Luật Phòng không nhân dân; 4- Về tăng cường công tác quản lý trật tự, an toàn xã hội: Dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi); dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; dự án Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ; dự án Luật Đường bộ; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; dự án Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; dự án pháp lệnh (hoặc luật) về quản lý, bảo vệ khu di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh...; 5- Về thực hiện nghĩa vụ quốc tế: Dự án Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc...

Ngày 16/12/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2114/QĐ-TTg, “Ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”, xác định cụ thể yêu cầu, trách nhiệm của từng bộ, ngành trong công tác xây dựng pháp luật. Ngày 09/11/2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, nêu rõ 5 quan điểm, mục tiêu tổng quát, 5 mục tiêu cụ thể đến năm 2030, 3 mục tiêu trọng tâm và 10 nhiệm vụ, giải pháp lớn để thực hiện Nghị quyết, trong đó có nhiệm vụ tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội (xác định “Tiếp tục đổi mới căn bản, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp, bảo đảm quản trị quốc gia bằng Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”) và nhiệm vụ tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Theo Nghị quyết số 50/2022/QH15, ngày 13/6/2022, của Quốc hội, về “Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022”, Luật Phòng thủ dân sự đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 5 (tháng 6-2023). Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; dự án Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự đã được Quốc hội cho ý kiến và sẽ thông qua tại Kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2023). Luật Phòng thủ dân sự có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội, được xây dựng nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 30/8/2022, của Bộ Chính trị, “Về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo”, các nghị quyết khác của Đảng có liên quan; quy định cụ thể chế định phòng thủ dân sự trong Luật Quốc phòng năm 2018, theo đó, xác định phòng thủ dân sự là một bộ phận của phòng thủ đất nước, bao gồm các biện pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh, sự cố, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân. Dự án Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự được xây dựng trên cơ sở luật hóa Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự năm 1994, thể chế hóa các quan điểm của Đảng có liên quan; bổ sung quy định về quản lý, sử dụng và một số nội dung khác nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác này.

Trong thời gian tới, để thể chế hóa đầy đủ các quan điểm của Đảng về lĩnh vực quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra, cần tiếp tục tập trung rà soát, nghiên cứu để sửa đổi hoặc ban hành mới một số luật điều chỉnh về quốc phòng, an ninh, như xây dựng Luật về kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh, nhằm thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, nguyên tắc hiến định là kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế; xây dựng các luật chuyên ngành quy định về phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, về động viên công nghiệp, về tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; các biện pháp nghiệp vụ chuyên ngành của cơ quan công an; các biện pháp giải quyết khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, nhưng chưa đến mức độ ban bố tình trạng khẩn cấp; các biện pháp đặc biệt khác để bảo đảm quốc phòng, an ninh. Ban hành, sửa đổi các đạo luật quy định về các lĩnh vực cụ thể của an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ Tổ quốc và các trường hợp hạn chế quyền con người, quyền công dân vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, như Luật Bảo vệ bí mật cá nhân, Luật về an ninh, trật tự ở cơ sở... Sửa đổi Luật An ninh quốc gia để bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo vệ an ninh quốc gia, quyền con người, quyền công dân. Theo đó, sửa đổi các quy định về nhiệm vụ của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia; củng cố cơ sở hiến định cho tổ chức, hoạt động của các lực lượng trong hoạt động bảo đảm an ninh quốc gia, đấu tranh với các loại đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia; cụ thể hóa một bước quy định về thẩm quyền áp dụng các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp và các tình huống khác về an ninh quốc gia; đưa các vấn đề về xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” thành chế định độc lập với nhiều điều luật bảo đảm đầy đủ, cụ thể. Sửa đổi Luật Biên giới quốc gia nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng về bảo vệ biên giới quốc gia đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình hình thực tiễn. Nội luật hóa tối đa các điều ước quốc tế có liên quan đến quốc phòng, an ninh mà Việt Nam là thành viên...

Ngoài ra, để xây dựng hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, cần tiếp tục quan tâm rà soát và hoàn thiện các quy định có liên quan đến vấn đề này trong tất cả dự án luật, dự thảo nghị quyết khác. Nghiên cứu sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo hướng bổ sung quy trình thẩm tra nội dung bảo đảm quốc phòng, an ninh đối với tất cả dự án luật, dự thảo nghị quyết, dự án pháp lệnh, để các văn bản này khi được ban hành đều đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việc pháp điển hóa, hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực quốc phòng, an ninh cần kịp thời, nhằm tạo thuận lợi trong quá trình áp dụng. Tăng cường giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết những nội dung của luật, pháp lệnh, nghị quyết, trong đó có nội dung về quốc phòng, an ninh, khắc phục triệt để tình trạng chậm ban hành, nợ ban hành hoặc ban hành văn bản có dấu hiệu không phù hợp với Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết, sớm đưa các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh để kịp thời phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp khắc phục phù hợp, đồng thời làm cơ sở để định hướng hoàn thiện pháp luật.

Để thực hiện hiệu quả yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh nói riêng, cần tập trung làm tốt công tác chỉ đạo rà soát, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu xây dựng pháp luật nhằm thể chế hóa đầy đủ các nghị quyết của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, bảo đảm bám sát thực tiễn, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra. Trong quá trình xây dựng pháp luật, cần quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang; thực hiện đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quy định pháp luật khác có liên quan, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, chú ý đến những nhiệm vụ, giải pháp về kiểm soát quyền lực, phòng, chống lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật cũng như các yêu cầu của Trung ương Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ./.


1. Trong đó, phải kể đến Sắc lệnh số 23/SL, ngày 21/02/1946, của Chủ tịch Chính phủ lâm thời, về thành lập Việt Nam Công an vụ thuộc Bộ Nội vụ; Sắc lệnh số 77/SL, ngày 29/5/1946, của Chủ tịch Chính phủ, về việc thiết quân luật; Sắc lệnh số 133/SL, ngày 20/01/1953, của Chủ tịch nước, về việc trừng trị các loại Việt gian, phản động và xét xử những âm mưu, hành động phản quốc; Nghị định số 132-CP, ngày 29/9/1961, của Hội đồng Chính phủ, về quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Công an; Nghị định số 221-CP, ngày 29/12/1961, của Hội đồng Chính phủ, về việc phòng cháy và chữa cháy rừng; Nghị định số 104-CP, ngày 27/6/1964, của Hội đồng Chính phủ, về ban hành Điều lệ đăng ký và quản lý hộ khẩu; Thông tư số 131-VP/PC, ngày 27/4/1962, của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, về việc bảo vệ trật tự, an toàn giao thông vận tải đường sắt;...
2. “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân” (Điều 77); “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật Nhà nước, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa” (Điều 78)...
3. Như: Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005, “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005, “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”...
4. Như: Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/4/2018, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược quốc phòng Việt Nam”; Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 25/7/2018, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”; Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 05/9/2019, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia”;...
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 335 - 336.

Theo Tạp chí Cộng sản

Kiều Trang tổng hợp

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-quoc-phong-an-ninh-dap-ung-yeu-cau-nhiem-vu-trong-tinh-hinh-moi-a7939.html