Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và kiêm nhiệm chức danh

CT&PT - Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là chủ trương lớn của Đảng. Việc thực hiện mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên so với mục tiêu, yêu cầu vẫn còn những hạn chế, bất cập. Bài viết góp phần làm rõ các yếu tố tác động đến việc thực hiện mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh, trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị nhằm thực hiện thành công nhiệm vụ đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.

1. Thực trạng đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, kiêm nhiệm chức danh

Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là việc tái cấu trúc bộ máy của Đảng và Nhà nước theo hướng hợp nhất các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tương đồng. Đây là một trong những cách thức thu gọn, hợp lý hóa bộ máy tổ chức các tổ chức trong hệ thống chính trị, trên cơ sở đó giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Nhất thể hóa là khái niệm kép, nhất thể hóa cơ quan, tổ chức, đơn vị được hiểu là việc gộp hai chức danh người đứng đầu vào một người đảm nhiệm.

Kiêm nhiệm chức danh là một người có thể đảm nhiệm thêm một hoặc vài vị trí trong tổ chức, cơ quan khác. Thông thường, các chức danh kiêm nhiệm ít được đặt ngang bằng với chức danh chính mà một người đảm nhiệm; người giữ vị trí lãnh đạo trong cơ quan kiêm nhiệm một hoặc một vài chức danh khác trong bộ máy hoặc ở cơ quan, tổ chức khác. Việc kiêm nhiệm các chức danh lãnh đạo trong trường hợp này không làm thay đổi tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức có chức danh được kiêm nhiệm và tạo được tính đồng bộ, khả năng phối hợp trong việc thực thi chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức dưới sự chỉ đạo thống nhất của một người.

Một người đồng thời vừa giữ chức vụ người đứng đầu cấp ủy, vừa giữ chức vụ đứng đầu cơ quan chính quyền cùng cấp là hình thức cao hơn việc kiêm nhiệm, khắc phục được tâm lý chức vụ chính và chức vụ kiêm nhiệm. Việc này không chỉ làm giảm số người đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, mà còn cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng bộ máy của Đảng, Nhà nước; tạo điều kiện tái cấu trúc quan hệ giữa tổ chức đảng và cơ quan chính quyền; bảo đảm sự liên thông, làm cho quá trình triển khai thực hiện các quyết sách của Đảng và Nhà nước được thông suốt, nhanh chóng, hiệu quả.

Trong suốt quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn quan tâm đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; đặc biệt trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay. Ngày 22/7/1986, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 34-NQ/TW về kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực của bộ máy, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) chỉ rõ: “Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước”1. Đó là việc phải xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, có đủ năng lực thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu, theo hướng: “Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và có năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội”2.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016), việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy được đặc biệt chú trọng và chỉ đạo thực hiện quyết liệt: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức... Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ”3; “tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị... Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới”4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XII của Đảng đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Ngày 07/8/2018, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 34-KL/TW cho chủ trương hướng dẫn về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW. Ngày 07/7/2022, Bộ Chính trị ban hành Thông báo kết luận số 16-TB/TW về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

Việc triển khai thí điểm các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh thời gian qua đã có một số kết quả tích cực. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đánh giá: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt”5. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được rà soát, bổ sung, hoàn thiện, khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo theo nguyên tắc một tổ chức, một người có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức, một người chủ trì và chịu trách nhiệm chính.

Theo đó, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp tinh gọn, giảm đầu mối, cấp trung gian và giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước xây dựng chính quyền điện tử, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.

Việc thực hiện thí điểm một số mô hình mới cho thấy, tổ chức bộ máy được tinh gọn, cơ chế hoạt động và phương thức lãnh đạo, quản lý, điều hành có nhiều đổi mới theo hướng hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn.

Các đơn vị hành chính cấp huyện, xã và các thiết chế tự quản được hợp nhất, sắp xếp lại cho phù hợp. Mô hình tổ chức mới buộc cán bộ phải tự hoàn thiện, cập nhật, bổ sung kiến thức đáp ứng nhu cầu công việc và là dịp để sàng lọc những cán bộ làm việc kém hiệu quả, góp phần tinh giản biên chế; việc thực hiện mô hình thí điểm mới và kiêm nhiệm chức danh buộc cấp ủy, chính quyền, cán bộ được giao trọng trách phải năng động, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện thí điểm các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh cũng còn những hạn chế, bất cập nhất định. Về điều này, Đảng ta đã chỉ rõ: “việc hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình thực tiễn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy ở một số nơi thiếu kiên quyết, đồng bộ và chưa đạt mục tiêu đề ra; cá biệt có nơi còn nóng vội, chưa có bước đi vững chắc. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa thật sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động”6.

Tổ chức, bộ máy bên trong bộ, cơ quan ngang bộ vẫn còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, số đơn vị trực thuộc tăng lên, với nhiều đơn vị có tư cách pháp nhân, làm cho tình trạng “bộ trong bộ” vốn là hạn chế chưa khắc phục được của việc hợp nhất, sáp nhập các bộ, cơ quan từ giai đoạn trước càng nặng nề thêm. Mô hình tổ chức tổng cục, cục, vụ không thống nhất7. Số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn tăng về số lượng, nhất là ở các địa phương8.

Tổ chức bộ máy của Đảng còn nhiều đầu mối, cấp phó; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh có từ 6 đến 7 đầu mối cấp phòng và cơ quan nào cũng đều có văn phòng, các ban.

Việc sáp nhập các đơn vị hành chính không đạt chuẩn còn chậm. Hiện nay, cả nước có 724 đơn vị hành chính cấp xã không đạt 50% hai tiêu chuẩn về quy mô dân số và diện tích tự nhiên theo quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, kể cả đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở một số ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn mới. Cơ cấu đội ngũ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ, công chức, viên chức ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu mới có trình độ trung học phổ thông, thậm chí vẫn còn một bộ phận có trình độ tiểu học.

Việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nơi, có lúc vẫn thực hiện “cơ học”, máy móc dẫn đến có nơi cần tăng thêm biên chế để đáp ứng nhu cầu thực tiễn nhưng không được tăng, có nơi cần giảm biên chế nhưng không thực hiện được vì chức năng, nhiệm vụ và đầu mối cơ quan không giảm. Chậm xây dựng vị trí việc làm đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập.

2. Những trở ngại trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh trong hệ thống chính trị

Thứ nhất, nhận thức, tư tưởng

Chủ trương đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy được cán bộ, công chức biết đến nhiều, nhưng chưa thực sự hiểu rõ, thống nhất. Nhiều người còn đồng nhất khái niệm “hợp nhất” với “sáp nhập” và “nhất thể hóa” chức danh người đứng đầu và đều mang nghĩa là “gộp cơ học” hai cơ quan thuộc hai hệ thống khác nhau, hai chức danh lãnh đạo vào thành một. Theo đó, việc hợp nhất ở một số địa phương không giống nhau, không thống nhất trong cách thức thực hiện. Có nơi tiến hành hợp nhất ngay, có nơi tiến hành theo lộ trình, ban đầu là nhất thể hóa chức danh người đứng đầu, sau một thời gian mới tiến hành hợp nhất. Trong quá trình thực hiện thí điểm, ngoài những nội dung được hướng dẫn trong các văn bản của Đảng, các địa phương tùy tình hình thực tế và có tham khảo kinh nghiệm của một số địa phương khác để áp dụng cho địa phương mình. Vì “tùy tình hình thực tế”, nên nhận thức không thống nhất dẫn đến lộ trình, cách thức tiến hành cũng không thống nhất.

Mặt khác, việc tổ chức mô hình mới và kiêm nhiệm chức danh là công việc hệ trọng, khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và lợi ích của nhiều người. Vì thế, vẫn còn tâm lý thăm dò, thận trọng; nể nang, ngại va chạm, chưa thực hiện một cách quyết liệt, mạnh mẽ; hiệu quả chưa cao.

Thứ hai, yếu tố pháp lý

Vấn đề hợp nhất mới dừng lại ở chủ trương, mang tính định hướng, nguyên tắc chỉ đạo chung mà chưa có hướng dẫn cụ thể và thể chế hóa thành văn bản quy phạm pháp luật để chỉ đạo, điều hành. Điều này dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện; nhiều cơ chế, chính sách vẫn chưa được hoàn thiện, thiếu văn bản pháp lý hướng dẫn, dẫn đến tình trạng địa phương chờ Trung ương, địa phương này chờ địa phương kia. Chưa có quy định rõ ràng để xử lý trách nhiệm tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong thực hiện công tác sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Mặt khác, việc tinh giản một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức không bảo đảm năng lực vẫn gặp khó khăn.

Thứ ba, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn là yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nhất là trong việc thực hiện thí điểm mô hình mới và kiêm nhiệm chức danh. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được hợp nhất cũng phải thực hiện mọi thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức đơn vị được hợp nhất. Quyền hạn, trách nhiệm của người lãnh đạo được tăng lên đáng kể, các mối quan hệ lãnh đạo, quản lý cần được xử lý, giải quyết không chỉ tăng lên, mở rộng, mà còn rất phức tạp, theo đó đòi hỏi họ phải có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, uy tín để xử lý. Trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ phụ thuộc vào chuyên môn và chất lượng đào tạo.

Hiện nay, vẫn chưa có hệ thống tiêu chuẩn chung cho chức danh, chức vụ, vị trí việc làm; mỗi ban, bộ, ngành có quy định riêng về tiêu chuẩn chức danh làm cho công tác luân chuyển, điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý và kiêm nhiệm chức danh gặp trở ngại.

Công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ vẫn nặng kiểm soát đầu vào mà chưa kiểm soát đầu ra của từng vị trí việc làm và hiệu quả công việc. Công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức còn những bất cập, sơ hở nhất định. Tình trạng “vì người mà sắp xếp việc” vẫn còn, nên vẫn còn tình trạng đúng “quy trình” mà chưa đúng người, đúng việc.

Thứ tư, về lợi ích và chế độ chính sách

Việc chậm đổi mới mô hình tổ chức, cơ chế quản lý có nguyên nhân sâu xa về lợi ích cá nhân và lợi ích của cơ quan chủ quản. Khi sắp xếp tổ chức bộ máy, có người phải đảm nhiệm thêm những công việc mới; có người phải chuyển sang vị trí công tác mới khó khăn hơn, có người mất việc vì diện “dôi dư”... Mặt khác, cơ quan chủ quản, quản lý mất phần bề thế, mất dần quyền lợi.

Trong khi đó, hiện chưa có cơ chế, chính sách đãi ngộ tương xứng với trách nhiệm công việc được giao đối với những vị trí kiêm nhiệm, nhất là vị trí trưởng cơ quan kiêm nhiệm hai chức danh; chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ tài chính cho việc tinh giản bộ máy, tinh giản biên chế; chế độ phụ cấp cho cán bộ kiêm nhiệm một hoặc nhiều chức danh lãnh đạo chưa thật sự hấp dẫn, tương xứng với chức vụ đảm nhiệm.

Thứ năm, tính hợp lý, rõ ràng trong mục tiêu hợp nhất tổ chức, kiêm nhiệm chức danh

Trên thực tế, không ít trường hợp việc hợp nhất chỉ là cơ học, lắp ghép giản đơn các đơn vị, bộ phận lại; thiếu đồng bộ, thống nhất giữa các địa phương; không có sự liên thông từ Trung ương đến cấp huyện dẫn đến cơ quan sau hợp nhất chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn của nhiều hệ thống, cơ quan cấp trên; quá trình hoạt động phải báo cáo nhiều cơ quan khác nhau với nhiều loại hình, thể thức văn bản khác nhau gây áp lực công việc, khó khăn cho quá trình thực hiện.

Một khi người đứng đầu cấp ủy đồng thời là người đứng đầu chính quyền cùng cấp, người đứng đầu cơ quan đảng đồng thời đứng đầu cơ quan chính quyền đòi hỏi phải xác định thật rõ, minh bạch và cụ thể quyền hạn và trách nhiệm, phân định rõ mối quan hệ về quyền và trách nhiệm giữa cá nhân người đứng đầu và tập thể lãnh đạo.

Triển khai chủ trương người đứng đầu cấp ủy đồng thời là người đứng đầu cơ quan chính quyền là cần thiết, nhưng các thể chế về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tài chính... chưa cụ thể, rõ ràng, nhiều nội dung chưa có văn bản quy định. Một cơ quan hợp nhất nhưng tồn tại hai tài khoản, hai cơ chế tài chính, 2-3 con dấu; cán bộ, công chức phân tán ở hai trụ sở, văn bản hành chính công vụ thì áp dụng theo hai quy định khác nhau; vẫn tách bạch việc phân bổ, quản lý sử dụng biên chế và chế độ chính sách ở cơ quan sau hợp nhất thuộc hai khối (khối chính quyền và khối đảng).

Việc hợp nhất 2-3 đầu mối tổ chức, nhưng chưa đồng thời tiến hành “tích hợp” cải cách hành chính đã tạo áp lực lớn đối với người đứng đầu và các bộ phận tham mưu trong việc bảo đảm chế độ thông tin, báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ theo đúng kế hoạch.

3. Giải pháp đẩy nhanh việc thực hiện chủ trương đổi mới tổ chức bộ máy, kiêm nhiệm chức danh trong hệ thống chính trị

Một là, xây dựng mô hình thí điểm phải thống nhất, đồng bộ, gắn với cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa, xây dựng chính quyền điện tử; và phải có cơ chế, chính sách đặc thù. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”9.

Hai là, hoàn thiện thể chế, cơ chế về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức vận hành linh hoạt, hiệu lực, hiệu quả; cơ chế phối hợp nhịp nhàng; phân cấp, phân quyền rõ ràng; cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ; xác định rõ vị trí việc làm...của tổ chức mới, người kiêm nhiệm chức danh theo đúng tinh thần: “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”10.

Ba là, đổi mới cơ chế, chính sách phù hợp, trả lương, thu nhập theo vị trí việc làm và hiệu quả công việc; hoàn thiện cơ chế lựa chọn, đánh giá, sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện nghiêm Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm và loại bỏ những cán bộ, đảng viên vi phạm; thay thế, miễn nhiệm kịp thời cán bộ năng lực, trình độ không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Bốn là, có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”11.

Năm là, phải có tầm nhìn, lộ trình và bước đi cụ thể, đồng bộ, vững chắc, kiên trì, quyết liệt, nhưng không chủ quan, nóng vội theo tinh thần: “Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và những bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm”12.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 452, 453.

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 203, 204.

5, 9, 10, 11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 73, 185, 174-175, 111, 185.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 184.

7, 8. Báo cáo số 128/BC-CP, ngày 19/4/2021 tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030, tr. 26, 27.

Theo Tạp chí Lý luận chính trị điện tử

Phạm Hương tổng hợp

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/thuc-hien-chu-truong-doi-moi-sap-xep-to-chuc-bo-may-cua-he-thong-chinh-tri-va-kiem-nhiem-chuc-danh-a7906.html