Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh: Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII

CT&PT - Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Đó là lời khẳng định, là sự nhắc nhở mà toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải ghi nhớ và thực hiện. Đảng vừa là hạt nhân của hệ thống chính trị, vừa là người lãnh đạo, tổ chức nòng cốt của hệ thống chính trị. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị ở nước ta hiện nay và mai sau. Đây cũng là một trong những nội dung cốt lõi mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII của Đảng nhấn mạnh.

Sinh thời, khi nói về tầm quan trọng của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”2. Quán triệt tư tưởng của Người, hơn 91 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng với vai trò là người lãnh đạo chân chính của cách mạng Việt Nam, một lòng một dạ vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Ở bất kỳ giai đoạn nào của tiến trình cách mạng, Đảng vẫn luôn đứng vững vị trí tiên phong, dìu dắt, hướng dẫn, tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng. Dù có những thời điểm, sự nghiệp cách mạng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, hay khi đất nước đứng trước bối cảnh thế giới có những biến động chính trị phức tạp, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tỏ rõ bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng, luôn trung thành, kiên định với lý tưởng, mục tiêu đã được xác định ngay từ khi mới thành lập, bình tĩnh và sáng suốt chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bão táp. Sự trưởng thành cũng như những thắng lợi của Đảng ta luôn gắn liền với tên tuổi của Hồ Chí Minh. Những tư tưởng của Người về xây dựng Đảng cho đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị và có ý nghĩa thiết thực đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Ngày 05/6/1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, từ Cảng Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Sau những năm tháng bôn ba tới nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy con đường cách mạng vô sản. Những kinh nghiệm đúc rút từ hoạt động thực tiễn, cũng như sự tiếp cận với lý luận cách mạng đã giúp Hồ Chí Minh hình thành và phát triển những quan điểm đầu tiên về sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin và tổng kết những bài học kinh nghiệm quý báu của  cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, cách mạng Nga đã giúp Người sớm nhận ra rằng, muốn cách mạng thành công thì “trước hết phải có Đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công”3. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã trực tiếp thực hiện sứ mệnh lịch sử, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là học thuyết khoa học, cách mạng và triệt để nhất của thời đại vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chuẩn bị về mặt lý luận để tiến tới thành lập Đảng kiểu mới - Đảng của giai cấp vô sản.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu lịch sử, là tiền đề cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với những thắng lợi vẻ vang và những bước nhảy vọt lớn trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam sau này. Từ đây, phong trào cách mạng Việt Nam bước sang một trang mới, được dìu dắt, hướng dẫn bởi một Đảng chân chính lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, lấy độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội làm mục đích đấu tranh.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, mang bản chất giai cấp công nhân - lực lượng xã hội tiến bộ nhất, tích cực nhất của thời đại. Trọng trách lớn lao của Đảng là giáo dục tinh thần cho quần chúng, làm cho quần chúng giác ngộ ý nghĩa của cách mạng, hiểu được các quy luật phát triển của xã hội, nhận thức rõ mục tiêu đấu tranh; chỉ rõ con đường đấu tranh cho quần chúng nhân dân lao động, tổ chức và động viên tinh thần đấu tranh cũng như xây dựng niềm tin của họ vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “xây dựng Đảng là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của nhân dân ta”4.

Để xây dựng Đảng trở thành một tổ chức chính trị có bản lĩnh vững vàng, luôn kiên định lập trường của giai cấp công nhân và đủ sức lãnh đạo nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục bản chất, lý tưởng cách mạng của Đảng, bồi dưỡng tri thức lý luận cho cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu: “Đảng phải tăng cường tư tưởng giai cấp công nhân… phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận…, đấu tranh với những tư tưởng “phi vô sản””5.Theo Người, mục đích cơ bản của việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tinh thần biện chứng của lý luận đó và vận dụng một cách sáng tạo vào việc nhận thức, giải quyết vấn đề của thực tiễn cách mạng. Có như vậy, Đảng mới phát huy được vai trò “nền tảng tư tưởng”, “kim chỉ nam” của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với nhận thức, hành động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.

Từ quan niệm cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, “sức dân như nước, chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Đảng phải liên hệ chặt chẽ và tập hợp được đông đảo quần chúng, hết lòng, hết sức phục vụ quần chúng, làm cho quần chúng thực sự gắn bó với Đảng, tin Đảng, ra sức ủng hộ Đảng và tự nguyện, tự giác nghe theo sự lãnh đạo của Đảng. Chính sự gắn bó chặt chẽ và lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân đã góp phần giúp Đảng giành được những thắng lợi to lớn. 

Đảng là một tổ chức chính trị, có kỷ luật chặt chẽ, gồm những người ưu tú, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, toàn tâm, toàn ý, tự nguyện, tự giác phụng sự lợi ích của Tổ quốc và toàn thể nhân dân lao động. Song, như Hồ Chí Minh đã nói, đảng viên và cán bộ cũng là con người, không tránh khỏi những khuyết điểm do sự “lây nhiễm” từ bên ngoài. Nếu không được phát hiện, sửa chữa kịp thời, khuyết điểm đó có thể làm tổn hại đến uy tín và sức chiến đấu của Đảng. Người coi mỗi khuyết điểm là một chứng bệnh, “mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ bên trong phá ra”6;  “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”7.

Do vậy, để kịp thời phát hiện, sửa chữa những khuyết điểm, giữ cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao, theo Hồ Chí Minh, một mặt phải tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; mặt khác, phải thực hiện tự phê bình và phê bình, bởi đây là vũ khí sắc bén nhất để phát hiện và sửa chữa khuyết điểm, là cách tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đồng thời, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên“tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa khuyết điểm như mỗi ngày phải rửa mặt”8. Người tin rằng, bằng cách làm này, Đảng sẽ chống được nguy cơ thoái hóa, biến chất của một số cán bộ, đảng viên, từ đó giúp Đảng ngày càng trở nên trong sạch, vững mạnh hơn.

Tựu trung lại, theo Hồ Chí Minh, để đảm đương và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực sự là một Đảng kiểu mới, được tổ chức hoạt động và phát triển theo những nguyên tắc mácxít - lêninnít. Về lý luận, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Về tổ chức, Đảng thực hiện chế độ dân chủ tập trung. Về kỷ luật, Đảng phải có kỷ luật nghiêm và tự giác. Về phương pháp xây dựng, Đảng phải thực hiện tự phê bình và phê bình để giáo dục đảng viên. Về mục đích, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện nền dân chủ mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Có thể nói, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn trăn trở về Đảng, mong muốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của sự nghiệp cách mạng. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn việc cần phải làm trước tiên là “chỉnh đốn lại Đảng”; đồng thời, yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến cơ sở “… cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình… Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau… Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng… Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”9. Những căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự là những lời tâm huyết, được đúc rút từ một con người vĩ đại đã hiến dâng cả cuộc đời cho Đảng, dân tộc và nhân dân.

2. Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII 

Trung thành với lý tưởng và thực hiện nghiêm những chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng, phát triển Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về mọi phương diện. Giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự kiên định lý tưởng cộng sản, sự phát triển cả về số lượng và chất lượng đảng viên, không ngừng đổi mới, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ để tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước chính là thước đo sự trưởng thành và ngày càng lớn mạnh của Đảng. 

Song, bên cạnh những thành tựu đạt được, hiện nay, đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Đó là các nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch…  Đặc biệt, “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường”10. Chỉ tính trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đã “có 87.210 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 49.400 đảng viên bị xử lý kỷ luật do liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; 3.260 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, hơn 30 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”. Trước tình hình đó, hơn bao giờ hết, sự trong sạch, vững mạnh của Đảng với tư cách là Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Bởi, sự trong sạch, vững mạnh của Đảng không chỉ gắn với việc bảo tồn, giữ vững và phát huy những thành quả đạt được trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam nói chung và của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, mà còn trực tiếp quyết định vận mệnh của đất nước cũng như của Đảng ta trong tương lai.

Ý thức được trách nhiệm nặng nề trước nhân dân và dân tộc, đồng thời tiếp tục phát huy tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, được tiến hành quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống””12. “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới, có hiệu quả, hiệu lực, nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được tăng cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương… Công tác phòng, chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn và có chiều hướng giảm”13. “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới… Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ…”14. Kết quả trên góp phần tạo chuyển biến tích cực trong ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ…, từ đó thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân. 

Về nội dung công tác xây dựng Đảng, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta nhấn mạnh, bên cạnh việc tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa nhiều công việc cụ thể, thiết thực, tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã đề ra, trong thời gian tới, cần bổ sung, nhấn mạnh thêm nhóm nhiệm vụ, giải pháp liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đó là xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Nhiệm vụ xây dựng Đảng mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII của Đảng tiếp tục khẳng định là một yêu cầu tất yếu được đặt ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thời đại, phản ánh tính biện chứng trong quá trình phát triển của Đảng. Những nội dung trên chính là sự tiếp nối và cụ thể hóa những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong bối cảnh và điều kiện mới.

Trong rất nhiều “những việc cần phải làm ngay”, để xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vị thế và trọng trách của một Đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo, cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, thực hành dân chủ trong Đảng 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”15; một vấn đề được nhiều người xem xét, đóng góp ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm thì vấn đề đó mới được hiểu rõ, mới được giải quyết thấu đáo, tránh được sai lầm. Vì vậy, thực hành dân chủ trong Đảng, nhất là ở cơ sở, sẽ tạo điều kiện để thực hiện hiệu quả phê bình và tự phê bình. Hơn nữa, thực hành dân chủ trong Đảng còn là phương thức hiệu quả để phát huy trí tuệ, năng lực sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo nên sức mạnh trí tuệ của Đảng - một yếu tố không thể thiếu của một đảng lãnh đạo và cầm quyền, đặc biệt là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng như xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. 
Thực tiễn cho thấy, trong 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhờ thực hiện dân chủ, Đảng ta đã hội tụ được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, biến trí tuệ đó thành sức mạnh Việt Nam trong việc nhận thức và giải quyết đúng đắn các nhiệm vụ của cách mạng, từ xây dựng và phát triển kinh tế đến củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị, từ giải quyết vấn đề xã hội đến thực hiện chiến lược phát triển bền vững… Ở khía cạnh khác, có thể nói, cuộc đấu tranh chống tham nhũng - một quốc nạn hiện nay, chỉ có thể thành công khi dân chủ được tôn trọng, bảo đảm và mở rộng cả ở trong Đảng và ngoài xã hội. Nói cách khác, dân chủ là chìa khóa để thành công.

Thứ hai, coi trọng xây dựng đạo đức cách mạng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân 

Thái độ xem nhẹ việc trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng, chưa nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình… khiến không ít cán bộ, đảng viên sa ngã trước những cám dỗ đời thường. Chính sự thiếu bản lĩnh, không chiến thắng được cái “tôi” hẹp hòi, ích kỷ và những ham muốn lợi ích cá nhân ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là nguồn gốc sâu xa, là “tiếp tay” cho những tệ nạn như tham nhũng, hối lộ, cửa quyền, quan liêu, mất đoàn kết, vi phạm kỷ luật… Chủ nghĩa cá nhân là một trong những nguy cơ tiềm ẩn, bởi nó ẩn núp ngay trong bản thân mỗi người. Vì vậy, cùng với việc tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, tích cực thực hiện tự phê bình và phê bình để đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân trong tổ chức đảng, trong bộ máy nhà nước; giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên để họ trở thành những “công bộc”, “đày tớ” trung thành của nhân dân… Tâm có trong sáng, lành mạnh thì mỗi người cán bộ, đảng viên mới thực sự có động cơ, tình cảm và đạo đức cách mạng đúng đắn; mới luôn nghĩ và hành động vì lợi ích chung của nhân dân, đất nước; mới sẵn sàng làm những việc có lợi cho dân, đồng thời chống lại những gì có hại cho dân. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, Đảng trở nên vững mạnh, có năng lực, trí tuệ và sức chiến đấu cao là nhờ trong đội ngũ của Đảng luôn có đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”.

Lịch sử phong trào cách mạng thế giới trong những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã để lại những bài học quý báuvề ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và các nước Đông Âu là do sự thoái hóa, tê liệt, mất sức chiến đấu của Đảng Cộng sản, xem nhẹ và xa rời các nguyên tắc xây dựng Đảng mácxít - lêninnít. Song, thực tiễn cách mạng cũng chứng minh một tất yếu lịch sử, đó là sự vững vàng trong thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, biết dựa vào dân để hình thành sức mạnh tổng hợp đã giúp Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước nói riêng và sự nghiệp cách mạng của đất nước nói chung đòi hỏi Đảng ta phải thực sự lớn mạnh, ngang tầm với những yêu cầu và nhiệm vụ mới. Muốn vậy, một mặt, Đảng phải luôn kiên định những nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng mácxít lêninnít; mặt khác, phải phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng, thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ của mình. Việc coi trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII của Đảng vừa thể hiện sự kiên trì, vận dụng nghiêm túc, sáng tạo những nguyên tắc về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa là cơ sở để Đảng nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, cầm quyền và tăng cường sức Chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới.


1, 9, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 611, 611-612, 325.

2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289.

4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 279.

6, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 278, 301.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 279.

10. Toàn văn phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Báo điện tử Chính phủ, ngày 04/10/2021, http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Toan-van-phat-bieu-khai-mac-Hoi-nghi-Trung-uong-4-cua-Tong-Bi-thu-Nguyen-Phu-Trong/448559.vgp.

11. TS. Nguyễn Xuân Trường: Những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phòng, chống tham nhũng và suy nghĩ bước đầu về giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định hiện nay, Trang thông tin điện tử tổng hợp Ban Nội chính Trung ương, ngày 05/9/2021, https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202109/nhung-diem-moi-trong-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang-ve-phong-chong-tham-nhung-va-suy-nghi-buoc-dau-ve-giai-phap-quan-trong-co-y-nghia-quyet-dinh-hien-nay-310023.

12, 13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 77, 75-76, 76-77.

PGS, TS. ĐẶNG BÁ MINH, Thiếu tá NGUYỄN HỮU THẾ

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/xay-dung-dang-trong-sach-vung-manh-tu-tu-tuong-ho-chi-minh-den-nghi-quyet-trung-uong-4-khoa-xiii-a7833.html