Sự cần thiết phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng trong giai đoạn hiện nay

CT&PT - Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết về đánh giá công tác lý luận, xác định phương hướng, nhiệm vụ của công tác lý luận nói chung, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nói riêng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 08/02/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận…, đánh dấu một bước chuyển mới cả trong nhận thức và tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.

Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng gồm nhiều nội dung, trong đó nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn là những nội dung chủ yếu, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là cơ sở cho việc xây dựng, phát triển lý luận, cơ sở cho công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận, đấu tranh tư tưởng - lý luận, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về nền tảng tư tưởng, đường lối cách mạng của Đảng, về chính sách, pháp luật của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng hiện nay

Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay, Đảng luôn khẳng định: tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác tư tưởng, lý luận nói riêng, là tiền đề để nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, cung cấp cơ sở khoa học để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Thực tiễn chứng minh, bất cứ việc gì muốn thành công đều phải có lý luận hướng dẫn, bởi lý luận khoa học luôn bắt nguồn từ thực tiễn và nhằm phục vụ hoạt động thực tiễn, lý luận đóng vai trò mở đường và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều đã khẳng định vai trò to lớn của lý luận cách mạng, cũng như mối liên hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. V.I. Lênin chỉ rõ: Đảng chỉ phát huy được vai trò lãnh đạo xã hội khi Đảng được trang bị lý luận tiên phong, không có lý luận tiên phong thì không còn là một đảng trí tuệ, không có khả năng “dẫn đường” cho bất kỳ ai, và do đó, Đảng không còn lý do để tồn tại. Đối với Đảng Cộng sản, để không ngừng nâng cao tính tiên phong và năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng đối với xã hội, thì một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là Đảng phải được trang bị lý luận tiên phong, đồng thời phải thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Chỉ khi thực hiện tốt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, Đảng mới tránh được nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị, mới giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; những quyết sách của Đảng đưa ra mới đúng đắn, khoa học, từ đó giữ vững được niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, hành động trong Đảng và ngoài xã hội mới thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: lý luận như bó đuốc soi đường, không có lý luận thì như người mù đi trong đêm tối, tìm mãi không thấy đường ra. Đảng mà không có lý luận dẫn đường thì “cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1. Người còn chỉ rõ: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”2. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hiểu một cách khái quát nhất, thực tiễn là hoạt động của con người nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội, đó là quá trình khách quan của hoạt động sản xuất vật chất, đồng thời cũng là hoạt động cải tạo cách mạng của các lực lượng xã hội khác nhau, góp phần làm biến đổi thế giới. Còn lý luận là cái phản ánh thực tiễn. Lý luận được thể hiện dưới dạng hệ thống tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Nói cách khác, lý luận là kinh nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong ý thức con người. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan và nảy sinh trong những điều kiện lịch sử nhất định, vì vậy các khái niệm, các phạm trù lý luận đều mang tính lịch sử. Sự phát triển của hiện thực và sự thay đổi của điều kiện lịch sử tất yếu đòi hỏi lý luận cũng phải được bổ sung và phát triển theo, và nhờ thế mà lý luận khoa học sẽ ngày càng phong phú hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn.

Quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong những thập niên gần đây cho thấy, nếu không xuất phát từ thực tiễn, không tổng kết thực tiễn thì chắc chắn không có lý luận đổi mới, không có đường lối đổi mới đúng đắn. Không có sự chỉ đạo của lý luận đổi mới đúng đắn thì không có thực tiễn đổi mới thành công.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đánh dấu bước chuyển quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng ta. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ việc tổng kết thực tiễn, Đại hội đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hóa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thừa nhận sự tồn tại của sản xuất hàng hóa và thị trường, chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp…

Kế thừa tinh thần Đại hội VI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) tiếp tục tổng kết thực tiễn, tổng kết quá trình thực hiện đường lối đổi mới, trên cơ sở đó đề ra “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (tháng 01/1994) đã tiến hành tổng kết thực tiễn và đề ra những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời chỉ ra những thuận lợi cơ bản trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới và bốn nguy cơ lớn đối với cách mạng nước ta, đó là: tụt hậu xa hơn về kinh tế; đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng, quan liêu; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) đã bổ sung, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hoàn thiện thêm những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”3. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là: phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, bảo đảm công bằng xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đi đôi với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị thực sự dân chủ, kỷ cương, năng động, trong sạch.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước sau 20 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006) đã bổ sung và đề ra nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong thời gian tới là: “Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về Đảng cầm quyền và công tác xây dựng Đảng; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân… Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận”4.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước sau 30 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) đã bổ sung và đề ra nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong thời gian tới là: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định phát triển đường lối, chủ trương của Đảng,...; nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới”5.

Đặc biệt, sau 35 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng như sau:Tư duy lý luận của Đảng có bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Các cơ quan lý luận của Đảng, Nhà nước được tổ chức, sắp xếp lại, hoạt động hiệu quả hơn; cơ chế hoạt động, quản lý công tác nghiên cứu lý luận từng bước đổi mới. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh hơn”6. Trên cơ sở đó, Đảng đề ra nhiệm vụ: Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách7.

2. Định hướng của công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đang bước vào một chặng đường phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới ngày càng được củng cố. Song, bên cạnh những thành tựu đạt được, đất nước cũng đứng trước nhiều khó khăn. Đó là các nguồn lực tăng trưởng cho chiều rộng dần cạn kiệt và khan hiếm; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng gay gắt; cấu trúc an ninh - chính trị khu vực có sự thay đổi nhanh chóng; sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển gặp phải nhiều thách thức mới. 

Trước tình hình đó, trong thời gian tới, yêu cầu tổng kết thực tiễn phục vụ cho nghiên cứu lý luận cần tập trung vào một số định hướng sau: 

Trên lĩnh vực kinh tế: Đổi mới mô hình tăng trưởng, con đường và giải pháp đưa nước ta thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thực hiện khởi nghiệp quốc gia, phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài; cơ cấu lại kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; tích tụ và tập trung ruộng đất. Khai thác, tận dụng tối đa thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 

Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường: Xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, phát triển công nghiệp văn hóa; xây dựng hệ giá trị chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam thời đại mới; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nếp sống văn minh, phát triển tiềm lực văn hóa; quản lý phát triển xã hội, xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt, mở rộng diện bao phủ và nâng cao về chất lượng; bảo vệ tài nguyên, phát triển “kinh tế xanh”, ứng phó với biến đổi khí hậu; đổi mới mô hình đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với giai đoạn mới. 

Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới; bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng, phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo đảm an toàn xã hội, đấu tranh với các thế lực thù địch và cơ hội chính trị; hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và địa phương. 

Trên lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng. Tinh gọn bộ máy, đổi mới công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ. Kiểm soát quyền lực, đặc biệt là tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; tăng cường xây dựng gắn với chỉnh đốn Đảng, phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. 

3. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng trong thời gian tới

Để góp phần đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận theo tinh thần nghị quyết của Đảng, đáp ứng yều cầu nhiệm vụ của cách mạng hiện nay, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp đối với công tác tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận và hoạt động chỉ đạo, điều hành

Cấp ủy các cấp và mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cần nhận thức rõ ưu điểm và hạn chế của “tư duy kinh nghiệm”, trên cơ sở đó tìm giải pháp phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế. Theo đó, cấp ủy các cấp cần nâng cao trình độ lý luận chính trị, rèn luyện thói quen lấy lý luận để phân tích, đánh giá thực tiễn, lấy thực tiễn để kiểm chứng lý luận. Việc tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ không tách rời việc nâng cao tư duy lý luận, đặc biệt là lý luận cơ bản để có phương pháp luận đúng đắn khi vận dụng vào tổng kết thực tiễn. Đào tạo lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp không chỉ nhằm phát triển tư duy lý luận mà phải bao hàm cả tăng cường kỹ năng tổng kết thực tiễn. Kỹ năng đó phải trở thành hành trang thường trực trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn.

Hai là, mở rộng dân chủ, nâng cao trình độ và phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân

Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là quá trình đấu tranh giữa các chính kiến, quan điểm khác nhau để tìm ra chân lý khách quan. Sự thiếu dân chủ, áp đặt hay độc quyền trong khoa học là lực cản lớn, kìm hãm sự phát triển của khoa học lý luận và tổng kết thực tiễn. Do đó, cần khẩn trương xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nhiều vấn đề lý luận đã được Đảng ta làm rõ, song cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa - xã hội, đối nội và đối ngoại, đó là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta; phát triển nền văn hóa, con người và nguồn nhân lực chất lượng cao; những vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch... Đây không chỉ là nhiệm vụ của Trung ương, mà còn là nhiệm vụ của các ngành, các cấp, là trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.

Ba là, chủ động chăm lo xây dựng các cơ quan, lực lượng chuyên trách, nòng cốt làm công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận

Công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận đòi hỏi phải có những cơ quan, lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong thực hiện công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Chất lượng, số lượng các cơ quan, lực lượng chuyên trách này ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến chất lượng và hiệu quả của công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Vì vậy, trước hết phải thường xuyên kiện toàn hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận từ phạm vi quốc gia đến các ngành, các lĩnh vực, tạo thành hệ thống đồng bộ vững chắc, hoạt đng thống nhất, nhịp nhàng. Cùng với kiện toàn tổ chức, vấn đề đặc biệt quan trọng là phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận có đức, có tài, có bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, quan điểm tư tưởng vững vàng, có trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn giỏi, thực sự là những chiến sĩ trung kiên tài ba của Đảng với số lượng dồi dào và cơ cấu cân đối, hợp lý. Bên cạnh đó, cần có chính sách nhằm phát huy năng lực của những cán bộ đã trải qua các cuộc kháng chiến, có nhiều thành tích, nhiều kinh nghiệm trong tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Đồng thời, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, từng bước hình thành thế hệ cán bộ đảm nhiệm chuyên sâu về công tác tư tưởng, lý luận, thực sự có bản lĩnh, có tài năng và tâm huyết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong thời kỳ mới.

Bốn là, đa dạng hóa phương thức tổng kết thực tiễn, gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học

Một khi tổng kết thực tiễn trở thành yêu cầu bắt buộc như học tập, nghiên cứu lý luận, thì phương thức tổng kết thực tiễn cũng cần phải được đa dạng hóa, nghĩa là giúp cán bộ rèn luyện khả năng quan sát, kỹ năng điều tra, phân tích tình hình và tổng kết kinh nghiệm... trong mọi hoàn cảnh, tình huống để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng. Trước đây, tổng kết thực tiễn chủ yếu coi trọng phương thức gián tiếp thông qua thành lập ban chỉ đạo và tổ chức theo hệ thống dọc. Phương thức này nhằm triển khai một đề án, nhiệm vụ tổng kết thực tiễn - lý luận cụ thể khi lý luận còn có “độ trễ” trước thực tiễn, đòi hỏi phải được bổ sung bằng chính dữ liệu của đời sống hay chu trình vận hành của một nghị quyết khi đủ niên độ thời gian (5 năm, 10 năm) phải tiến hành tổng kết, đánh giá. Bên cạnh tổng kết thực tiễn theo phương thức gián tiếp, còn có thể tổng kết thực tiễn theo phương thức trực tiếp, tức là người lãnh đạo dành thời gian đi cơ sở để quan sát, điều tra, tổng kết các mô hình; nghiên cứu các nhân tố mới, những gương điển hình tiên tiến (đơn vị anh hùng, cá nhân anh hùng…); tổng kết thực tiễn thông qua tham dự đào tạo lý luận chính trị. Nhờ tham dự trực tiếp, cán bộ có thể tổng kết thực tiễn một cách chân thật, sâu sắc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Muốn hiểu biết toàn bộ một sự vật, hiểu biết bản chất và quy luật nội bộ của nó, thì phải suy xét kỹ lưỡng, gom góp những cảm giác phong phú lại, rồi chọn lọc cái nào thật, cái nào giả, cái nào đúng, cái nào sai, từ ngoài đến trong, để tạo thành một hệ thống khái niệm lý luận. Đó là hiểu biết do thực hành mà có và được cải tạo trong thực hành. Hiểu biết ấy sâu sắc hơn, đúng hơn, phản ánh sự vật một cách hoàn toàn hơn”8.

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của lý luận và thực tiễn, về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn; xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ yêu cầu của nhiệm vụ đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, từ thực trạng của công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…”9 là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong những năm tiếp theo.


1, 2, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289; t. 11, tr. 95; t. 7, tr. 127.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 85

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 284.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 201.

6, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 169-170, 234-235.  

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 181-182.

PGS, TS. NGUYỄN XUÂN TRUNG

TS. ĐỖ THỊ THU HÀ

Học viện Chính trị khu vực I, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/su-can-thiet-phai-day-manh-tong-ket-thuc-tien-nghien-cuu-ly-luan-cua-dang-trong-giai-doan-hien-nay-a7801.html