1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong bối cảnh hiện nay
Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Trong đó, Đảng ta ghi nhận và đánh giá cao vai trò, vị trí và những đóng góp của kiều bào với công cuộc đổi mới đất nước. Nghị quyết nêu rõ: “Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”2. Theo đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào xây dựng khối đoàn kết cộng đồng, từng bước tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn ở nước sở tại và hướng về Tổ quốc.
Bên cạnh việc đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng ta nêu rõ trách nhiệm của kiều bào: “người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của nước sở tại, chăm lo xây dựng đời sống ấm no, làm ăn thành đạt, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước bà con sinh sống với nước nhà, tùy theo khả năng và điều kiện của mỗi người góp phần xây dựng quê hương, đất nước, chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc”3.
Để tạo thêm động lực và những bước đột phá mới trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, phát huy vai trò tích cực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 06/6/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg về việc tiếp tục tăng cường triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về công tác với người Việt Nam ở nước ngoài. Chỉ thị nêu rõ: Đẩy mạnh thông tin trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về tình hình trong nước và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kiều bào, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 19/5/2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Chỉ thị nhận định: Trong quá trình nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng cả về số lượng và địa bàn cư trú, có cuộc sống ngày càng ổn định, có tiềm lực về tri thức và kinh tế, có vị trí và ảnh hưởng trong xã hội nước sở tại. Tình hình quốc tế, trong nước và những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới đòi hỏi công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần được tăng cường, hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục phát triển vững mạnh, nâng cao uy tín, tham gia tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước sở tại; góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể thấy, quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời kỳ đổi mới đã thể hiện truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời, đồng thời là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị, quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của Việt Nam với các nước có kiều bào sinh sống. Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của kiều bào trên cơ sở pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và luật pháp quốc tế. Nhà nước Việt Nam hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng ổn định và phát triển bền vững.
Thực hiện tốt chính sách của Đảng đối với người Việt Nam ở nước ngoài có ý nghĩa chiến lược, góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo vệ an ninh từ xa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước của tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài; tăng cường quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước, quảng bá văn hóa, truyền thống, hình ảnh đất nước, củng cố vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tính đến tháng 8/2021, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có khoảng 5,3 triệu người sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó, hơn 80% ở các nước phát triển4. Vai trò, vị thế và uy tín của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được nâng cao. Đại bộ phận người dân đã có địa vị pháp lý, ổn định cuộc sống, hội nhập sâu rộng vào xã hội sở tại trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, có tiềm lực đáng kể về trình độ khoa học, kỹ thuật. Dù ở bất cứ nơi đâu, đồng bào ta vẫn luôn hướng về Tổ quốc, gắn bó máu thịt với cội nguồn dân tộc, là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam; là nguồn lực quan trọng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, niềm tin của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được củng cố. Có được những kết quả trên là nhờ sự nỗ lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với tấm lòng luôn hướng về quê hương, đất nước; sự vào cuộc tích cực của hệ thống chính trị và nhân dân cả nước.
Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã có những tác động mạnh mẽ đến môi trường an ninh quốc gia, khu vực và thế giới, đưa đến những thay đổi về quan niệm an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia. Theo đó, an ninh quốc gia được hiểu một cách toàn diện hơn, không chỉ có các vấn đề về an ninh chính trị, quân sự truyền thống, mà còn bao quát những vấn đề an ninh phi truyền thống như: an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh tài chính - tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh dân số, an ninh môi trường...
Trước tác động của quá trình hội nhập quốc tế, nguy cơ đe dọa đối với an ninh quốc gia của Việt Nam mang tính toàn diện, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, môi trường... Do đó, vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia phải gắn liền với các lĩnh vực của đời sống xã hội, “lấy công làm thủ; xác định rõ mục tiêu của an ninh là để phát triển và phát triển chính là biện pháp bảo vệ an ninh cơ bản nhất, vững chắc nhất”5.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”6. Thực tế cho thấy, xây dựng, phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại là cơ sở, tiền đề, phương thức để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, ngược lại, bảo vệ an ninh quốc gia là điều kiện quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó bao hàm nội dung bảo vệ an ninh quốc gia từ sớm, từ xa. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh vai trò của đối ngoại, trong đó có công tác người Việt Nam ở nước ngoài đối với việc gìn giữ và tạo môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa. Nghị quyết chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”7.
Thứ nhất, người Việt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, củng cố vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
Những đổi mới trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để các kiều bào trở về thăm quê hương, gia đình và người thân. Nhờ đó, số lượng người Việt Nam ở nước ngoài trở về nước ngày một đông hơn. Trước khi đại dịch Covid-19 xảy ra, bình quân hằng năm có khoảng 4 đến 5 trăm nghìn lượt Việt kiều trở về thăm quê hương. Những chuyến trở về cội nguồn với nhiều hoạt động thiết thực đã hun đúc tình yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là đối với thanh thiếu niên. Nhiều thanh niên Việt kiều sau khi về thăm quê hương đã có những sáng kiến như: thành lập các hội, các câu lạc bộ, tổ chức các lớp học tiếng Việt, xuất bản các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng bản địa để truyền bá và giữ gìn văn hóa Việt; đồng thời, giới thiệu cho người dân nước sở tại hiểu thêm về đất nước Việt Nam.
Dư luận kiều bào cho rằng, những thành tựu do công cuộc đổi mới trong nước đã đem lại sự ổn định chính trị - xã hội, đồng thời tăng cường vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Ngày càng có đông đảo kiều bào hoan nghênh, công khai bày tỏ sự ủng hộ công cuộc đổi mới, ủng hộ chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Nhà nước Việt Nam. Trước thềm các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, các bản dự thảo Báo cáo chính trị được kiều bào quan tâm, nghiên cứu kỹ lưỡng và đóng góp ý kiến xác đáng, đầy tâm huyết với mong muốn đường lối của Đảng được thông qua tại các đại hội sẽ góp phần thúc đẩy đất nước phát triển, tạo điều kiện hơn nữa để kiều bào có thể đóng góp sức mình cho sự nghiệp đổi mới quê hương.
Đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đầu tư về nước là “nhất cử lưỡng tiện”, nhằm thực hiện mục tiêu: vừa đem lại lợi ích cho bản thân, gia đình, vừa góp phần thúc đẩy môi trường đầu tư, tạo thế và lực cho nền kinh tế đất nước; thúc đẩy đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; góp phần hiện thực hóa chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng. Tính đến tháng 10/2020, có 362 dự án FDI của kiều bào từ 27 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký là 1,6 tỷ USD8.
Những hoạt động đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài đã góp phần thúc đẩy môi trường đầu tư trong nước, tăng thêm nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo thế và lực mới cho đất nước.
Hằng năm, Việt Nam tiếp nhận một lượng lớn dòng ngoại tệ từ các kiều bào ở nước ngoài chuyển về với mục đích giúp đỡ gia đình, thân nhân và đồng bào trong nước. Theo số liệu thống kê, lượng kiều hối lũy kế từ năm 1993 đến năm 2021 đạt khoảng 180 tỷ USD, riêng năm 2019 đạt 16,7 tỷ USD, cao hơn số vốn FDI được giải ngân trong năm, đưa Việt Nam vào nhóm 10 nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới9.
Bên cạnh đó, trí thức kiều bào trở về nước hằng năm đã tham gia tích cực, có nhiều ý kiến đóng góp, tư vấn sâu sắc, tâm huyết vào quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Công tác cứu trợ nhân đạo của kiều bào ngày càng có nhiều hoạt động tích cực và thiết thực. Các tổ chức phi chính phủ, từ thiện của Việt kiều có nhiều hoạt động trợ giúp về y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, ủng hộ đồng bào trong nước bị thiệt hại do thiên tai, bão lũ. Riêng trong năm 2020, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đã quyên góp được 35 tỷ đồng tiền mặt cùng nhiều trang thiết bị, vật tư y tế ủng hộ công tác phòng, chống dịch Covid-19 ở trong nước; quyên góp, ủng hộ hơn 34 tỷ đồng cùng nhiều hàng hóa, vật phẩm qua các hội đoàn của người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm hỗ trợ đồng bào miền Trung khắc phục hậu quả mưa lũ.
Thứ hai, các hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được củng cố và phát triển, góp phần tăng cường đoàn kết trong cộng đồng, gìn giữ, lan tỏa bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, thực sự là cầu nối hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới
Trong những năm qua, nhiều cơ sở tôn giáo của người Việt Nam ở nước ngoài được thành lập, duy trì đều đặn các hoạt động sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng. Phong trào dạy và học tiếng Việt của người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được mở rộng với nhiều hình thức phong phú. Chính sách khuyến khích, động viên sự tham gia đóng góp của kiều bào được quan tâm, có giải pháp cụ thể. Một số cá nhân tiêu biểu người Việt Nam ở nước ngoài không chỉ là thành viên của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tham gia ban chấp hành các tổ chức chính trị - xã hội, mà còn có ảnh hưởng tích cực, phát huy vai trò nòng cốt trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những đóng góp của kiều bào góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao... Hàng trăm dự án FDI của kiều bào ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đã góp phần tạo việc làm, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước.
Chủ trương đổi mới, đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả phương thức vận động, hình thức tập hợp, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về Tổ quốc được các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị triển khai tích cực với nhiều sáng kiến thu hút, quy tụ sự quan tâm của đông đảo cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Gần đây, người Việt Nam ở nước ngoài thế hệ thứ ba trở về làm ăn, tham gia các hoạt động gắn với quê hương, đất nước có xu hướng tăng. Mạng lưới kiều bào trẻ quy tụ được hàng trăm thanh niên đang sinh sống và làm việc ở Việt Nam. Chương trình kết nối mạng lưới đổi mới sáng tạo đã tập hợp khoảng 100 nhà khoa học hàng đầu là người Việt Nam ở nước ngoài trong các lĩnh vực. Diễn đàn người Việt Nam có ảnh hưởng toàn cầu được tổ chức tại Pháp vào tháng 3/2019 thu hút sự tham gia của gần 300 đại biểu đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó hơn 200 đại biểu là người Việt Nam thành đạt, có ảnh hưởng trong các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, khoa học, nghệ thuật... Các hoạt động về nguồn như: Chương trình “Xuân quê hương”, Trại hè dành cho thanh niên, sinh viên kiều bào, Lễ giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 (âm lịch)... được tổ chức hằng năm, góp phần gắn kết, củng cố niềm tin của cộng đồng kiều bào về sự phát triển của đất nước. Các tổ chức hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được củng cố, mở rộng, tăng cường hoạt động bằng nhiều hình thức phong phú, đóng vai trò quan trọng trong đoàn kết cộng đồng, giữ gìn và quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc, là cầu nối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các nước sở tại. Tính đến năm 2021, có khoảng 500 hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài gắn bó với các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm hội sinh viên, hội đồng hương, hội theo đối tượng, sở thích và nghề nghiệp, tổ chức nhiều hoạt động hiệu quả, chú trọng giáo dục lớp trẻ; một số hiệp hội doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài đã mở rộng liên kết trong khu vực và toàn cầu.
Thứ ba, người Việt Nam ở nước ngoài góp phần bảo vệ an ninh đất nước từ xa; tích cực đấu tranh chống các âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam của các tổ chức phản động lưu vong
Một số phần tử trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có âm mưu, hành động chống phá sự nghiệp xây dựng đất nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các tổ chức phản động này được các thế lực cực hữu nước sở tại tiếp tay, ủng hộ, lôi kéo, thâm nhập và làm lũng đoạn các tổ chức, hội đoàn của người Việt ở nước ngoài. Chúng tập trung kích động đòi tự do, dân chủ, nhân quyền và tự do tín ngưỡng; đồng thời xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi xây dựng chế độ đa nguyên, đa đảng đối lập.
Trước tình hình đó, đại đa số cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đều có những ý kiến, thái độ và hành động thể hiện sự phản đối trước một bộ phận thiểu số người Việt phản động, đi ngược lại tinh thần đoàn kết, sự hòa hợp dân tộc và quá trình phát triển của đất nước. Ở một số địa bàn phức tạp, kiều bào công khai đấu tranh với các hoạt động chống phá của một số phần tử phản động. Nhiều người tham gia đấu tranh tại nghị trường, bày tỏ thái độ ủng hộ Nhà nước Việt Nam, ủng hộ phát triển quan hệ giữa các nước với Việt Nam; công khai viết bài, trả lời phỏng vấn, lên tiếng phản đối các hoạt động chống phá sự nghiệp đổi mới ở trong nước.
Kiều bào ta ở nước ngoài đã có các hoạt động dưới nhiều hình thức, góp phần tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc như: míttinh, biểu tình, tuần hành hòa bình phản đối Trung Quốc có các hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông, yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế và phán quyết của Tòa Trọng tài; tổ chức trưng bày tư liệu, hình ảnh, thông tin giới thiệu với người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tổ chức lễ cầu siêu tưởng niệm và tri ân các chiến sĩ đã hy sinh tại đảo Gạc Ma năm 1988; gửi thư tới Nghị viện châu Âu lên án các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại Biển Đông; tổ chức các hội thảo khoa học, vận động quyên góp ủng hộ đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo. Đặc biệt, năm 2016, trong chuyến thăm quân và dân huyện đảo Trường Sa, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đã quyên góp gần 1 tỷ đồng tiền mặt, hiện vật trị giá hơn 1 tỷ đồng để ủng hộ quân và dân trên đảo.
Chứng kiến những thành tựu đổi mới của đất nước, các kiều bào đã tích cực quảng bá hình ảnh đất nước đến với những người chưa trở về quê hương cũng như với bạn bè thế giới. Từ nhận thức, suy nghĩ đến những hoạt động của kiều bào đã tạo hiệu ứng tích cực, có tác động to lớn, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ an ninh quốc gia.
Tóm lại, với khả năng và trách nhiệm, với tiềm lực và tâm huyết của mình, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều đóng góp đối với sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và công tác bảo vệ an ninh quốc gia nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần hiện thực hóa đường lối đổi mới của Đảng. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã chứng kiến và ghi nhận những đóng góp không nhỏ của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Phát huy vai trò của người Việt Nam ở nước ngoài trong bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ chiến lược, được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng tin tưởng vào công cuộc đổi mới, đồng thuận và ủng hộ công cuộc phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 120.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t. 63, tr. 285.
3. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trịvề công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, https:// thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Nghi-quyet-36-NQTW-cong-tac-nguoi-Viet-Nam-o-nuoc-ngoai-66727.aspx.
4. Xem Kết luận số 12-KL/TW, ngày 12/8/2021 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới.
5. Bộ Công an, Học viện An ninh nhân dân, GS, TS. Phạm Ngọc Hiền: Về bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 40.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 110-111.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 331-332.
8. Xem Bộ Ngoại giao, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài: Kỷ yếu Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, Hà Nội, 2021, tr. 24.
9. Xem Bộ Ngoại giao, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài: Kỷ yếu Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, Tldđ, tr. 123, 16.
PGS, TS. TRẦN THỊ VUI
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
NCS. BÙI THỊ HẬU
Trường Chính trị tỉnh Sơn La