Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạch định và thực thi chính sách dân số và phát triển

CT&PT - Xu hướng và các biến động dân số đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, công tác dân số được thể hiện trong hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và các kế hoạch cụ thể tác động đến quy mô, chất lượng dân số theo hướng gắn dân số với phát triển bền vững đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách dân số và phát triển, tận dụng và phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng, đồng thời chuẩn bị điều kiện thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số, gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm mức tăng dân số hợp lý và cân bằng giới tính khi sinh”1.

1. Mối quan hệ giữa dân số và phát triển

Dân số và phát triển có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Các trụ cột của quá trình phát triển bền vững, từ kinh tế, xã hội đến môi trường đều gắn liền với vấn đề dân số. Những biến đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số sẽ dẫn đến những biến đổi về kinh tế, xã hội, môi trường. Thực tiễn cho thấy, quốc gia nào có dân số ổn định thì chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia đó sớm được hiện thực hóa.

Xuất phát từ mối quan hệ mật thiết giữa dân số và phát triển, việc hoạch định và thực thi chính sách dân số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Chính sách dân số phù hợp sẽ góp phần giải quyết vấn đề con người - vấn đề then chốt, trung tâm của quá trình phát triển. Ở Việt Nam, vấn đề con người - nguồn nhân lực được xác định là một trong các đột phá chiến lược nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước. Chính sách dân số và phát triển được thực thi hiệu quả là tiền đề để xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao - chủ thể của quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước; đồng thời góp phần bảo đảm quy mô dân số phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, qua đó giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Bên cạnh đó, các vấn đề xã hội như: giáo dục, y tế, nhà ở, xóa đói giảm nghèo... được tiếp cận và giải quyết một cách thỏa đáng; hạn chế, giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường sống.

2. Những thành tựu, hạn chế trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách dân số và phát triển

Về thành tựu

Một là, hình thành thể chế về dân số và phát triển

Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân số được thể hiện thông qua văn kiện các kỳ đại hội và các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề của Đảng, được ban hành cụ thể trong từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn, với nội dung cơ bản, thống nhất, tiêu biểu như: Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, ngày 14/01/1993 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới... Trong đó, Nghị quyết số 21-NQ/TW đặc biệt nhấn mạnh trọng tâm của chính sách dân số Việt Nam hiện nay: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”2.

Điều 40 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định: Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em; thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình. Khoản 2, Điều 58 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Năm 2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Dân số. Hằng năm, các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều có những chỉ tiêu về dân số.

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đến nay, Chính phủ đã ban hành và thực hiện 4 chiến lược dân số thích ứng với từng giai đoạn, bao gồm: Chiến lược dân số và kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000; Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2030.

Hai là, xây dựng, kiện toàn thiết chế quản lý công tác dân số

Từ năm 1961 đến năm 1992, ở cấp Trung ương có “Ban Chỉ đạo hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch” do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban kiêm nhiệm (năm 1984 là Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình do Phó Thủ tướng làm Chủ tịch kiêm nhiệm). Bộ Y tế là cơ quan thường trực (giai đoạn 1970 - 1974 là Ủy ban Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em). Một số bộ, ngành và đoàn thể xã hội là thành viên. Các cấp tỉnh, huyện và xã có mô hình tương tự. Thực tiễn cho thấy, mô hình “kiêm nhiệm” trên mang lại hiệu quả thấp. Sau hơn 30 thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình, năm 1992, tổng mức sinh của cả nước vẫn ở mức cao, với tỷ lệ 4 con/phụ nữ. Trong suốt 3 nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V, VI, mục tiêu dân số đều không đạt được. Do đó, Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, ngày 14/01/1993 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình đặt ra yêu cầu phải có sự điều chỉnh về các chủ thể tham gia quản lý và thực hiện chính sách dân số: “Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu quả và đến tận người dân”3.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Ủy ban Dân số - Kế hoạch hóa gia đình được thành lập từ Trung ương đến cơ sở. Lần đầu tiên, Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình có chủ nhiệm chuyên trách, hàm Bộ trưởng, thành viên Chính phủ. Bộ phận kiêm nhiệm là đại diện lãnh đạo của hầu hết các bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội. Với tổ chức bộ máy quản lý dân số - kế hoạch hóa gia đình được kiện toàn, đầu tư đúng mức, cách làm sáng tạo, trong giai đoạn 1993 - 2002, công tác dân số đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, thể hiện ở việc tỷ suất sinh giảm nhanh gấp 4,3 lần so với các năm trước đó.

Ba là, bảo đảm nguồn lực thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình

Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới nhấn mạnh: “Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế để bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số”4.

Về nguồn nhân lực: Cùng với việc kiện toàn bộ máy dân số - kế hoạch hóa gia đình từ Trung ương đến cơ sở, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ được chú trọng. Các khóa học ngắn hạn bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được tổ chức thường xuyên.

Về tài chính: Ngân sách nhà nước dành cho công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tăng lên đáng kể: Năm 1993, ngân sách đầu tư là 59,579 tỷ, gấp 8 lần so với năm 1992; năm 1994 là 193,9 tỷ; năm 1995 là 249,558 tỷ, gấp hơn 33 lần so với năm 19925. Bên cạnh đó, còn có sự ủng hộ, viện trợ từ các tổ chức quốc tế và đông đảo các tầng lớp nhân dân.

Về trang thiết bị, phương tiện: Phương tiện, kênh cung cấp và các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình ngày càng đa dạng, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Người dân dễ dàng tiếp cận các phương tiện, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình tại các cơ sở y tế, nhà thuốc...

Bốn là, gắn nội dung dân số với các chính sách phát triển của quốc gia

Khi chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kiểm soát sinh sang dân số và phát triển, mối quan hệ hai chiều, chặt chẽ giữa các yếu tố dân số (quy mô, cơ cấu, phân bố, tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử vong, di cư, chất lượng dân số) với các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh, quốc phòng được nhận thức một cách cụ thể, rõ ràng hơn, góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của công tác dân số cũng như thúc đẩy chính sách dân số được triển khai toàn diện cả về bề rộng và chiều sâu.

Về hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc triển khai thực hiện chính sách dân số và phát triển trong thời gian qua còn tồn tại một số bất cập, hạn chế sau:

Thứ nhất, chính sách giảm sinh triển khai không đồng đều giữa các vùng, miền

Theo thống kê, vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp hơn so với mức sinh thay thế (dưới 1,6 con), một số tỉnh đang trong tình trạng có mức sinh rất thấp như: Thành phố Hồ Chí Minh (1,36 con), Đồng Tháp (1,34 con), Bà Rịa Vũng Tàu (1,37 con), Hậu Giang (1,53 con)6… Tổng tỷ suất sinh của các tỉnh trong cả nước hiện tương đương với Hàn Quốc, Singapore - những nước có các chính sách khuyến khích phụ nữ sinh con do thiếu nguồn nhân lực và dân số già hóa nhanh chóng.

Bảng 1: Tổng tỷ suất sinh phân theo vùng7

                                                                           Đơn vị tính: Số con/phụ nữ

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Nếu vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với mức sinh thấp thì những tỉnh miền núi phía Bắc có mức sinh khá cao. Nhiều tỉnh như: Hà Giang, Lai Châu, Hà Tĩnh, Đắk Lắk… có tỷ suất sinh ở mức trên dưới 3 con. Thậm chí có những nơi, người dân sinh tới 6 - 7 người con. Do đó, ở những tỉnh này, muốn mức sinh giảm được là hết sức khó khăn.

Thứ hai, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh

Trong bài phát biểu tại Hội thảo “Đại biểu dân cử với chính sách, pháp luật về dân số và phát triển” (tháng 6/2022), bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam nhấn mạnh tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là “một vấn đề nghiêm trọng chưa được giải quyết trong nhiều năm”. Bà cho rằng: “Đó là tình trạng lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Năm 2019, ước tính có khoảng 45.900 trẻ em gái bị thiếu hụt do việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới và lựa chọn giới tính trước sinh. Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam là 111,5 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái so với mức sinh học bình thường là 105 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái, cao thứ ba châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ”8.

Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh trong những năm gần đây xuất phát từ tâm lý “trọng nam” còn tồn tại ở phần lớn các gia đình Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, khi thực hiện chính sách giảm sinh (mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2 con), nhiều cặp vợ chồng có xu hướng sử dụng/lạm dụng khoa học và công nghệ để lựa chọn giới tính khi sinh. Theo quy luật, tỷ số giới tính khi sinh cân bằng tự nhiên là 103 - 107 bé trai/100 bé gái. Năm 2020, tỷ lệ này ở Việt Nam là 112,1 bé trai/100 bé gái9. Theo dự báo, nước ta sẽ thiếu khoảng 2,3 - 4,3 triệu phụ nữ vào năm 2050 nếu không có những biện pháp can thiệp quyết liệt. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng lớn đến cấu trúc dân số và dẫn đến sự phát triển không bền vững về mặt xã hội như “sức ép hôn nhân” do thiếu hụt nữ giới, gia tăng nạn buôn người và bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

 Ngoài ra, quá trình thực hiện chính sách dân số còn tồn tại các vấn đề như: Tỷ lệ tầm soát trước sinh, sơ sinh còn thấp; tỷ lệ tử vong bà mẹ, trẻ sơ sinh, trẻ dưới 5 tuổi, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn duy trì ở mức cao, có chênh lệch lớn giữa các vùng, miền; tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn diễn ra phổ biến ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tỷ lệ người khuyết tật cao, chiếm 7,08% tổng dân số; phần lớn các gia đình sinh nhiều con ít có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ, gây ảnh hưởng đến chất lượng dân số; phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập; hạ tầng, chính sách xã hội ở nhiều đô thị, khu công nghiệp chưa đáp ứng kịp tốc độ tăng dân số cơ học; việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế; điều kiện sản xuất, sinh hoạt, các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế ở một số vùng đồng bào dân tộc, đặc biệt là khu vực biên giới phía Bắc còn nhiều khó khăn.

3. Những vấn đề đặt ra đối với chính sách dân số và phát triển

Thứ nhất, vấn đề chất lượng dân số

Theo Pháp lệnh Dân số Việt Nam năm 2003, “Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”. Chất lượng dân số thường được đo lường bằng “Chỉ số phát triển con người” (Human Development Index - HDI). Chỉ số này được tổng hợp từ các chỉ số về sức khỏe (tuổi thọ trung bình), giáo dục (số năm đi học trung bình) và kinh tế (thu nhập quốc dân bình quân đầu người).

Hiện nay, Việt Nam có lợi thế về “số lượng dân số vàng” nhưng chưa “vàng về chất lượng”. Mặc dù, chất lượng dân số Việt Nam không ngừng được tăng lên, tuy nhiên so với các nước trên thế giới, thứ hạng của Việt Nam còn ở mức khiêm tốn, chưa có sự khác biệt lớn giữa các khu vực, vùng, miền, địa phương…

Theo số liệu thống kê, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam không ngừng tăng lên, từ 0,496 năm 1992 lên 0,704 vào năm 2019 và lần đầu tiên được xếp vào nhóm có HDI cao. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa lọt vào top 100 nước có HDI cao nhất. Năm 2019, xếp hạng HDI của Việt Nam là 117/189 quốc gia.

Chất lượng dân số ở nước ta có sự khác biệt lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn; giữa các vùng, miền và các tỉnh10: chỉ số HDI khu vực thành thị đạt mức cao, (0,832), trong khi đó, chỉ số HDI ở nông thôn chỉ đạt mức 0,647. So với các vùng trong cả nước, vùng Đông Nam Bộ có chỉ số HDI cao nhất, đạt 0,810; vùng Trung du và miền núi phía Bắc chỉ đạt mức 0,603. Có 13 tỉnh và thành phố có chỉ số HDI cao, trong đó, cao nhất là Thành phố Hồ Chí Minh đạt 0,855; Thành phố Hà Nội đạt 0,836. Có 31 tỉnh có chỉ số HDI ở mức trung bình và 19 tỉnh có chỉ số HDI thấp, trong đó chỉ số HDI của tỉnh Cao Bằng chỉ đạt 0,39, tỉnh Điện Biên là 0,35, tỉnh Hà Giang là 0,31…

Bảng 2: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo phân theo vùng11

                                                                                                      Đơn vị tính: %

Vùng

2015

2016

2017

2018

2019

Đồng bằng sông Hồng

28,7

29,6

32,4

32,6

37,0

Trung du và miền núi phía Bắc

17,6

18,4

18,2

20,5

25,9

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

19,5

21,3

21,5

22,7

25,8

Tây Nguyên

13,0

14,2

14,3

16,9

17,0

Đông Nam Bộ

25,4

28,0

28,1

29,5

28,3

Đồng bằng sông Cửu Long

11,7

13,4

13,3

14,9

14,6

Cả nước

20,4

22,0

22,8

24,1

26,1

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Thứ hai, vấn đề già hóa dân số

Già hóa dân số đang trở thành một trong những chủ đề được quan tâm không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Tốc độ già hóa dân số nhanh sẽ tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: thị trường lao động, tài chính, nhu cầu về các hàng hóa, dịch vụ, giáo dục, an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi… Số liệu dân số quốc gia trong những năm gần đây cho thấy, chỉ số già hóa của 4 vùng kinh tế trọng điểm đạt mức cao nhất trong cả nước, điều này tiềm ẩn nguy cơ suy giảm nguồn cung lao động, thiếu nguồn nhân lực tại chỗ, yêu cầu đặt ra là phải thu hút lực lượng lao động di cư.

Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 với tỷ lệ người cao tuổi tăng nhanh liên tục, chỉ số già hóa dân số từ 8,7% năm 2009 tăng lên 12% năm 2019. Dự báo, Việt Nam sẽ trở thành nước có dân số già vào năm 2038 với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt trên 20%. Đến năm 2049, tỷ lệ người cao tuổi sẽ chiếm khoảng 25% dân số, nghĩa là cứ 4 người dân có một người cao tuổi12.

Như vậy, mặc dù đạt được những thành công nhất định trong kiểm soát dân số, nhất là kiểm soát tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, song, vấn đề già hóa dân số đang trở thành thách thức lớn đối với hệ thống an sinh xã hội ở nước ta, là bài toán khó đặt ra đối với Việt Nam trong cả hiện tại và tương lai.

Bên cạnh đó, hiện nay, công tác dân số và phát triển cũng đặt ra những yêu cầu cần giải quyết, đó là:

Một là, bảo đảm sự thống nhất giữa chính sách dân số và chính sách kinh tế - xã hội.

Hai là, chính sách dân số phải toàn diện, đồng bộ và có sức thuyết phục cao, gắn các mục tiêu chung của quốc gia, của từng địa phương, từng dân tộc với mục tiêu của mỗi gia đình, mỗi thành viên trong gia đình và toàn xã hội với các vấn đề chung khác.

Ba là, nội dung chính sách dân số phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với khả năng tài chính, kỹ thuật của nền kinh tế và đóng góp của nhân dân.

Bốn là, chính sách dân số phải thể hiện rõ tính dân chủ, tính nhân đạo, đồng thời thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với sự phát triển của dân tộc, trách nhiệm của mọi gia đình, mọi công dân đối với sự phồn thịnh của quốc gia, của mọi gia đình và thế hệ tiếp nối.

Năm là, cần tranh thủ sự giúp đỡ tích cực của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong hoạch định, thực thi chính sách dân số.

4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực thi chính sách dân số và phát triển

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của xã hội về dân số và phát triển

Để người dân nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ về chính sách dân số và phát triển, cần đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động về công tác dân số. Theo đó, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục với các hình thức phù hợp đến các tầng lớp nhân dân về các vấn đề như: duy trì ổn định mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; giảm thiểu tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững; thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Tăng cường tuyên truyền tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm đối tượng đặc biệt.

Trong quá trình tuyên truyền, cần truyền thông cho đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu được chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân số, đặc biệt là sự chuyển dịch từ chính sách kiểm soát mức sinh sang chính sách dân số và phát triển nhưng vẫn tiếp tục thực hiện cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình, mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2 con. Các hình thức, biện pháp tuyên truyền về dân số cần đa dạng, sinh động, phù hợp với nhiều nhóm đối tượng trong xã hội. Việc đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền phải hướng đến mục tiêu làm cho mọi người hiểu rõ lợi ích của kế hoạch hóa gia đình, chấp nhận gia đình quy mô nhỏ như một chuẩn mực xã hội, coi đây là giải pháp hàng đầu để thực hiện các mục tiêu dân số.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư phát triển các trung tâm, viện nghiên cứu và đào tạo về dân số, phát triển nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực dân số - kế hoạch hóa gia đình. Tổ chức mạng lưới thông tin, giáo dục truyền thông dân số từ Trung ương đến địa phương. Phát triển và củng cố các cơ sở dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế chính sách về dân số và phát triển

Theo đó, cần thành lập và vận hành có hiệu quả hệ thống tổ chức quản lý dân số từ Trung ương đến địa phương. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số phải gắn liền với rà soát, điều chỉnh hoặc bãi bỏ một số quy định về xử lý vi phạm trong công tác dân số, lựa chọn giới tính thai nhi, chăm sóc, phát huy vai trò của người cao tuổi…

Bên cạnh đó, để phù hợp với pháp luật quốc tế, Nhà nước không thực hiện phương pháp cưỡng bức, ép buộc trong việc thực hiện mục tiêu và các biện pháp về dân số - kế hoạch hóa gia đình, song cần thiết phải tạo ra những cơ sở hành chính - pháp lý cho hoạt động của lĩnh vực này. Những biện pháp hành chính - pháp luật trước hết bảo đảm các thủ tục hành chính thuận lợi cho nguời dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ lợi ích, tính mạng và sức khỏe cho người dân thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, đề cao trách nhiệm của viên chức và các tổ chức tham gia các chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, cũng như ngăn chặn những hành vi cố tình phá hoại chính sách dân số quốc gia. Các biện pháp này phần lớn được quy định trong một số bộ luật và trong các điều lệ, quy định riêng biệt trong việc thực hiện các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.

Thứ ba, nâng cao vai trò của tổ chức đảng, đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân số và phát triển

Các tổ chức cơ sở đảng cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục, vận động đảng viên thực hiện nghiêm chính sách dân số. Mỗi cán bộ, đảng viên cần gương mẫu, trách nhiệm trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, chú trọng nuôi dạy con cái, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.

Thứ tư, đầu tư nguồn lực cho công tác dân số

Thực hiện hiệu quả ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho công tác dân số, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho mọi tầng lớp nhân dân. Để nâng cao chất lượng dân số, cần đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, văn hóa, thể thao..., kiến tạo một hệ thống thiết chế văn hóa - xã hội từ Trung ương đến địa phương, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, nhất là đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo.

Chính phủ và các địa phương cần cân đối ngân sách để bảo đảm nguồn chi cho lĩnh vực dân số - kế hoạch hóa gia đình. Bên cạnh biện pháp giáo dục, biện pháp hành chính, cần lưu ý biện pháp kinh tế, kịp thời động viên những người đi đầu trong việc thực hiện chính sách dân số.

Mặt khác, cần quan tâm đầu tư, hỗ trợ về kỹ thuật và y tế cho công tác dân số. Nếu các biện pháp thông tin, giáo dục, tuyên truyền, hành chính, pháp luật chủ yếu tác động vào ý thức của người dân, thì các biện pháp kỹ thuật và y tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện hành vi dân số học của mình.

Đồng thời, cần đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực dân số, phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm Nhà nước, bảo hiểm thương mại... để các nhóm dân số đặc thù đều bình đẳng trong việc tham gia và thụ hưởng các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội.

Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân số

Cần xây dựng bộ máy chuyên trách đủ mạnh với nguồn nhân lực chất lượng, có kiến thức chuyên môn và nhiệt huyết với công việc. Việc kiện toàn bộ máy làm công tác dân số theo tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW là: tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống nhất.

Bên cạnh đó, cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, từ chính sách tiền lương, khen thưởng đến việc sử dụng quỹ thời gian linh hoạt... Đặc biệt là nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cộng tác viên ở cơ sở như tổ dân phố, người có uy tín trong cộng đồng, nhất là ở thôn, bản, vùng sâu, vùng xa, nơi nhận thức và điều kiện tiếp cận thông tin, khoa học, kỹ thuật của người dân về dân số còn hạn chế.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số và phát triển

Công tác dân số trong tình hình mới cần chủ động, tích cực hội nhập, tăng cường hợp tác quốc tế. Điều 30 Pháp lệnh dân số năm 2003 quy định phạm vi hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số: “a) Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án trong lĩnh vực dân số; b) Tham gia các tổ chức quốc tế, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong lĩnh vực dân số; c) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại trong lĩnh vực dân số; d) Đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong lĩnh vực dân số”; “Nhà nước khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia các hoạt động dân số”; “Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội về lĩnh vực dân số của nước ngoài được hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam”13.

Trong thời gian tới, cần thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các quy định này. Cụ thể, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: Tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn đa phương, song phương về dân số và phát triển. Tranh thủ sự đồng thuận, hỗ trợ về tài chính, tri thức, kinh nghiệm và kỹ thuật của các nước, các tổ chức quốc tế trong công tác dân số. Mặt khác, để bước vào quá trình hội nhập, cần phải tập trung nguồn lực thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc về dân số.

Có thể nói, việc chuyển đổi định hướng chính sách dân số của Việt Nam từ kiểm soát sinh sang hướng tiếp cận rộng hơn về dân số và phát triển là hoàn toàn cần thiết và phù hợp trong bối cảnh mới hiện nay. Trong thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực, đạt được nhiều thành tựu trong chính sách dân số gắn với phát triển. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu mà Chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2030 đề ra, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các giải pháp để vượt qua các rào cản, thách thức. Chính sách dân số phải được đặt trong tổng thể chính sách phát triển quốc gia, vấn đề dân số phải được thể hiện trong chính sách của từng lĩnh vực cụ thể. Có như vậy, chính sách dân số và phát triển mới có điều kiện để triển khai thành công, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 151.

2, 4. Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, Hệ thống Tư liệu - Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xii/nghiquyet-so-21-nqtw-ngay-25102017-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chaphanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-cong-tac-dan-so-trong-571.

3. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, ngày 14/01/1993 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, Hệ thống Tư liệu - Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://tulieuvankien. dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trunguong/khoa-vii/nghi-quyet-so-04-nqhntw-cua-hoi-nghi-lan-thu-tubchtw-dang-khoa-vii-ve-chinh-sach-dan-so-va-ke-hoach-hoa-1128.

5. GS, TS. Nguyễn Đình Cừ: Bài học kinh nghiệm từ chính sách dân số Việt Nam, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 21/12/2021, https://tuyengiao.vn/y-te-cong-dong/bai-hoc-kinh-nghiem-tuchinh-sach-dan-so-viet-nam-137224.

6. Tổng cục Thống kê: Báo cáo sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2019.

7, 9, 11. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2021, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2022, tr. 114-115, 105, 158-159.

8. https://vietnam.unfpa.org/vi/news/bai-phat-bieu-cua-ba-naomikitahara-truong-dai-dien-unfpa-tai-viet-nam-tai-hoi-thao-dai-bieu.

10. GS, TS. Nguyễn Đình Cừ: Chất lượng dân số Việt Nam tăng lên không ngừng nhưng so với các nước trên thế giới thứ hạng chưa cao và có sự khác biệt lớn giữa các khu vực, các vùng, các địa phương, Cổng thông tin điện tử Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Thành phố Hồ Chí Minh, http://dansohcm.gov.vn/tintuc/tin-tuc-chuyen-nghanh/7823/chat-luong-dan-viet-nam-thanhtuu-va-thach-thuc/.

12. Lê Nga: Dân số Việt Nam bước vào giai đoạn rất già năm 2049, Báo điện tử Vnexpress, ngày 22/7/2019, https://vnexpress.net/danso-viet-nam-buoc-vao-giai-doan-rat-gia-nam-2049-3955678.html.

13. Pháp lệnh dân số năm 2003, https://thuvienphapluat.vn/ van-ban/Quyen-dan-su/Phap-lenh-dan-so-2003-06-2003-PLUBTVQH11-50480.aspx.

 

PGS, TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

ThS. NGUYỄN THỊ THANH THÚY

Học viện Chính trị khu vực I, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

 

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-trong-hoach-dinh-va-thuc-thi-chinh-sach-dan-so-va-phat-trien-a7217.html