Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội - Những vấn đề đặt ra cho phát triển xã hội số theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Sau 37 năm đổi mới, từ quản lý phát triển xã hội gắn với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, Việt Nam đã chuyển sang hệ thống quản lý phát triển xã hội dựa vào đa chủ thể gắn với đa dạng hóa nguồn lực, cơ chế tác động của Nhà nước, thị trường và xã hội. Vì thế, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội được xử lý đúng đắn mới cho phép phát huy đầy đủ vai trò của từng thành tố, có tác dụng bổ sung mặt lợi thế, bù đắp thiếu hụt, cùng thúc đẩy xã hội phát triển.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã có bước phát triển nhận thức lý luận về xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Cùng với làm rõ hơn chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với nội dung, cơ chế, phương thức, công cụ can thiệp, điều tiết cụ thể(1), Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ”(2), “trong huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực”(3) và “các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường”(4), “tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật”(5). Những nhận thức lý luận mới trên đây cần tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc và thể chế hóa, cụ thể hóa trong điều kiện quản lý phát triển xã hội số, xã hội thông tin.

article-1681531668.jpg
 

1- Nhà nước, thị trường và xã hội là ba thành tố có quan hệ tương hỗ trong quản lý phát triển xã hội. Quản lý phát triển xã hội trước hết dựa vào thể chế nhà nước, được thiết lập thông qua Hiến pháp, pháp luật, tạo “luật chơi” cho các chủ thể thị trường, hình thành khung pháp lý bảo đảm cho mọi tổ chức và công dân được làm những gì pháp luật không cấm; thể chế doanh nghiệp với các điều lệ, quy định, văn hóa doanh nghiệp, có vai trò điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và tuân thủ quy định pháp luật; thể chế xã hội với các quy phạm thành văn và bất thành văn, điều lệ của các tổ chức xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội, từng thành viên tổ chức xã hội. Quản lý phát triển xã hội còn dựa vào các thiết chế, như tổ chức bộ máy nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị sự nghiệp tư, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng... Gắn với 3 loại hình thể chế, thiết chế nêu trên trong quản lý phát triển xã hội là cơ chế hỗn hợp với sự kết hợp giữa quản lý hành chính (như phân bổ ngân sách), nguyên tắc thị trường (như áp dụng nguyên tắc cạnh tranh trong tiếp cận nguồn đầu tư công, không phân biệt khu vực nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước) và cơ chế cộng đồng (như tự quản ở cộng đồng thôn/bản, tự quản của tổ chức xã hội). Phát triển xã hội luôn cần đến nguồn lực đa dạng, từ nguồn lực nhà nước (tài chính ngân sách, đầu tư công, đất đai, tri thức, nhân lực, khoa học - công nghệ, tài nguyên số...), nguồn lực doanh nghiệp (vốn, tri thức quản lý, khoa học - công nghệ, nhân lực...) đến nguồn lực xã hội (đất đai, vốn, tài nguyên văn hóa, nhân lực...).

Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội biểu hiện trên nhiều chiều cạnh: giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý; giữa các chủ thể thị trường; giữa các giai tầng, cộng đồng xã hội, tổ chức xã hội, thể chế xã hội với Nhà nước và thị trường; giữa lợi ích công với lợi ích doanh nghiệp, lợi ích của mỗi giai tầng, cộng đồng xã hội; giữa nguồn lực nhà nước với nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội. Bản chất sâu xa của mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là sự kết hợp, bổ sung lợi thế, bù đắp thiếu hụt của nhau, để tối ưu hóa mục tiêu quản lý xã hội ở Việt Nam. Các thành tố của “bộ ba” Nhà nước, thị trường và xã hội chỉ thật sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa, bù đắp thiếu hụt và bổ sung lợi thế cho nhau khi chúng được đặt trong tổng thể hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nếu tuyệt đối hóa một mặt nào của “bộ ba” Nhà nước, thị trường và xã hội thì sẽ gây nên những xung đột, làm trầm trọng thêm “khuyết tật” của từng thành tố, thậm chí đối nghịch nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến quản lý phát triển xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật và đạo đức công vụ; nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, coi trọng tuân thủ pháp luật và liêm chính kinh doanh; xã hội văn minh, dân chủ vận hành dựa trên nguyên tắc pháp quyền kết hợp với điều chỉnh của đạo đức xã hội. Xã hội phát triển luôn cần đến pháp luật công bằng, không thiên vị, Nhà nước vận hành theo nguyên tắc pháp quyền, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tính tối thượng của luật pháp được mọi tổ chức và công dân phục tùng, lâu dần sẽ trở thành thói quen tự giác. Nguyên tắc pháp quyền áp dụng không chỉ đối với doanh nghiệp, xã hội và người dân, mà trước hết là các cơ quan công quyền và đội ngũ công chức. Xã hội càng phát triển càng thúc đẩy nhiều doanh nghiệp khu vực tư nhân thực hiện tốt hơn trách nhiệm xã hội, mở rộng phúc lợi cho người lao động, bảo đảm quyền của người lao động và tham gia cung ứng dịch vụ xã hội theo nguyên tắc phi lợi nhuận. Các tổ chức xã hội cũng vận dụng phương thức quản trị doanh nghiệp để có thể gia tăng quy mô các quỹ, thúc đẩy tăng trưởng tài chính, nhờ đó có điều kiện thực hiện tốt hơn mục tiêu, sứ mệnh và giá trị đạo đức của tổ chức. Có thể nói, nguyên tắc pháp quyền, đạo đức công vụ, liêm chính kinh doanh và đạo đức xã hội là “mẫu số chung” bảo đảm cho Nhà nước, thị trường và xã hội kết hợp chặt chẽ, hiệu quả, bổ sung cho nhau, cùng thúc đẩy tổng thể xã hội phát triển bền vững. Và, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng đóng vai trò quyết định việc kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay.

2- Kinh tế thị trường có mặt tích cực là phân bổ hiệu quả nguồn lực; thúc đẩy tự do cạnh tranh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, đào thải những doanh nghiệp yếu kém; phát huy tính năng động sáng tạo của người lao động, phát triển sức sản xuất, tạo ra của cải vật chất ngày càng tăng. Tuy vậy, kinh tế thị trường có “khuyết tật” là thường chú ý đến các nhu cầu có khả năng thanh toán, nguồn lực đầu tư hướng đến nơi có khả năng sinh lời, nên không sản xuất các hàng hóa, dịch vụ công cộng, thậm chí vì tối đa hóa lợi nhuận mà có những doanh nghiệp sẵn sàng hy sinh lợi ích công cộng (như gây ô nhiễm môi trường, làm hàng giả). Trong nền kinh tế thị trường, phân phối không công bằng dẫn tới phân cực của cải, phân hóa giàu nghèo, phân tầng mức sống, chênh lệch trình độ phát triển giữa các vùng; cạnh tranh không hoàn hảo khiến hiệu lực cơ chế thị trường suy giảm và xuất hiện độc quyền; tính tự phát của thị trường thường gây nên các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ để lại những hậu quả lâu dài.

Vì vậy, sử dụng đúng đắn, khôn khéo vai trò của Nhà nước, kết hợp với phát huy đầy đủ sức mạnh của xã hội là cách thức quan trọng hàng đầu cho phép thúc đẩy mặt tích cực và sửa chữa “khuyết tật” của thị trường, cụ thể:

Một là, hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền tài sản của mọi tổ chức và cá nhân; tạo “sân chơi” công bằng cho các chủ thể trên thị trường tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền, loại bỏ “nhóm trục lợi”. Các công cụ, chính sách, nguồn lực nhà nước được sử dụng để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho doanh nghiệp hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Hai là, phân phối lại thu nhập thông qua hệ thống phúc lợi xã hội nhằm khắc phục bất công xã hội phát sinh sau khi phân phối lần đầu. Phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bảo đảm bằng sự tham gia của nhiều chủ thể, trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nền tảng là dịch vụ công cơ bản, thiết yếu (miễn phí hoặc phí sử dụng thấp), khỏa lấp những hàng hóa, dịch vụ mà tư nhân không sản xuất, thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có thể ủy quyền cho khu vực ngoài nhà nước cung ứng một số dịch vụ công cộng, thúc đẩy cạnh tranh, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng dịch vụ.

Ba là, bảo đảm an sinh xã hội dựa trên cơ chế đóng - hưởng và chia sẻ, giúp người dân luôn duy trì thu nhập tối thiểu, phòng ngừa khi gặp rủi ro, mất sức lao động vẫn được bảo vệ và chăm sóc, không rơi vào cùng cực. Hệ thống an sinh xã hội dựa trên cơ chế tài chính đóng - hưởng và chia sẻ, được Nhà nước bảo trợ, kể cả hỗ trợ tài chính ngân sách để thực hiện một số phúc lợi xã hội mang chức năng an sinh, như hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số mua bảo hiểm y tế, hỗ trợ bằng tiền mặt cho người mất việc làm do thiên tai, dịch bệnh, như trong đại dịch COVID-19.

Bốn là, Nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực tư nhân không làm hoặc chưa làm. Đó là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu, tạo môi trường dẫn dắt, lôi kéo nguồn lực tư nhân theo phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”. Đó là đầu tư kiến tạo những thị trường tiềm năng (như thị trường khoa học - công nghệ) mà tư nhân chưa đầu tư, đến khi thị trường hình thành, đủ sức hấp dẫn, thu hút được tư nhân tham gia thì Nhà nước có thể chuyển giao để chuyển vốn đầu tư khởi tạo ngành, nghề mới.

Năm là, thúc đẩy liêm chính kinh doanh, thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát doanh nghiệp tuân thủ pháp luật. Đề cao liêm chính kinh doanh khiến doanh nghiệp gắn kết giữa tìm kiếm lợi nhuận với thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường, tôn trọng quyền của người lao động tại doanh nghiệp và quyền lợi của người tiêu dùng. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là cơ sở cho các cơ quan nhà nước, truyền thông - báo chí và xã hội giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện, ngăn chặn và loại bỏ những hành vi kinh doanh trái pháp luật và vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội.

Sáu là, phát huy vai trò các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong thúc đẩy liên kết, hợp tác, điều tiết quan hệ thị trường, góp phần giảm thiểu tính tự phát của thị trường, cân đối cung - cầu, phòng ngừa nguy cơ khủng hoảng chu kỳ. Bảo đảm sự cân bằng giữa các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp khi tác động đến chính sách, hạn chế “nhóm trục lợi” tìm cách giành lấy lợi thế mà gây tổn hại đến lợi ích chính đáng của các nhóm xã hội khác, đặc biệt là nhóm yếu thế.

Bảy là, giáo dục, tuyên truyền, thúc đẩy tính tích cực của cộng đồng, gia đình, cá nhân người tiêu dùng khi tham gia quan hệ thị trường. Đó là sự tỉnh táo trước “hội chứng đám đông” có thể gây rối loạn thị trường cũng như định hình hành vi tiêu dùng thông thái khiến doanh nghiệp coi trọng đạo đức kinh doanh, tôn trọng lợi ích người tiêu dùng, giảm thiểu các ngoại ứng tiêu cực. Phát huy tinh thần tương trợ chia sẻ trong cộng đồng xã hội để hỗ trợ, giúp đỡ những người yếu thế, kém may mắn.

3- Nhà nước là tổ chức đặc biệt duy nhất có quyền ban hành pháp luật, thu thuế, sở hữu các tài sản công; lập quân đội, cảnh sát, tòa án,... để duy trì quyền lực công cộng, bảo đảm quốc phòng, an ninh và môi trường thuận lợi cho phát triển. Tuy vậy, Nhà nước cũng thường gặp những “khuyết tật bẩm sinh của quyền lực”, như tham nhũng, quan liêu, lạm quyền, can thiệp sâu vào mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, khiến “khuyết tật” của thị trường và xã hội thêm trầm trọng. Chính sách và nguồn lực nhà nước thường bị níu kéo bởi lợi ích cục bộ của các bộ, ngành, địa phương. Dịch vụ công là khu vực dễ rơi vào trì trệ, thiếu năng động, vừa hạn chế đến chất lượng dịch vụ, vừa làm cho đối tượng thụ hưởng có tâm lý dựa dẫm, sử dụng thiếu trách nhiệm, nhất là dịch vụ công miễn phí. Nguồn lực nhà nước luôn gặp giới hạn, khó đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của xã hội.

Do đó, Nhà nước chỉ phát huy tốt vai trò, sức mạnh của mình cũng như hạn chế được các khuyết tật, kiểm soát quyền lực hiệu quả, khi vận dụng hợp lý các nguyên tắc thị trường vào quản trị công và phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, cụ thể:

Một là, thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của Nhà nước để người dân và doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực nhà nước, dịch vụ công một cách công bằng, loại bỏ cơ chế “xin - cho”. Định hình cơ chế nắm bắt, tiếp nhận, xử lý hiệu quả thông tin thị trường, phản hồi xã hội để hoạch định và thực thi luật pháp, chính sách sát hợp thực tiễn, hạn chế tối đa những can thiệp chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực.

Hai là, vận dụng một số nguyên tắc thị trường vào quản trị công. Áp dụng hình thức “sở hữu công, quản trị tư” để nâng cao hiệu quả quản trị các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, nhất là quản trị nhân sự, quản trị chất lượng sản phẩm. Vận dụng nguyên tắc cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ công cộng, trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước như đấu thầu các gói đầu tư công, mua sắm công, để qua đó nguồn lực nhà nước được sử dụng hiệu quả hơn, hạn chế tham nhũng, lãng phí, nâng cao trách nhiệm phục vụ người dân và doanh nghiệp của công chức, viên chức.

Ba là, thúc đẩy khát vọng dân tộc, trách nhiệm xã hội và liêm chính kinh doanh của doanh nghiệp. Khát vọng, ý chí tự cường dân tộc là động lực cho doanh nghiệp nỗ lực vươn lên, giữ vững thị trường trong nước và vươn ra thị trường thế giới, đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế của Nhà nước và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trách nhiệm xã hội và liêm chính kinh doanh khiến doanh nghiệp không chỉ chạy theo lợi nhuận, mà còn chia sẻ, chung tay cùng Nhà nước và xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, chăm lo cải thiện phúc lợi người lao động tại doanh nghiệp.

Bốn là, nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, người dân và truyền thông - báo chí. Dự thảo luật pháp, chính sách đều lấy ý kiến phản biện của nhân dân thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng, được tiếp thu nghiêm túc. Khi tổ chức thực thi chính sách, pháp luật thì tăng cường giám sát xã hội để phát hiện những bất cập, những tình huống mới phát sinh, những vướng mắc của người dân và doanh nghiệp để tập trung tháo gỡ.

Năm là, huy động nguồn lực xã hội để bổ sung, bù đắp cho giới hạn của nguồn lực nhà nước. Nguồn lực đất đai, tài chính, nhân lực, giá trị văn hóa,... của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo, gia đình, cá nhân được huy động bằng cơ chế phù hợp góp phần xây dựng các công trình phúc lợi công cộng (như giao thông nông thôn, nhà trẻ, nhà văn hóa, vườn hoa, công viên...). Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) gắn với chế độ hợp đồng dài hạn, chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước và tư nhân có ý nghĩa tạo đột phá phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội vốn trước đây chỉ dựa vào đầu tư ngân sách.

Sáu là, kết hợp thể chế luật pháp với thể chế xã hội, quản lý nhà nước với tự quản cộng đồng để nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội, nhất là tại cộng đồng dân cư. Thể chế xã hội chứa đựng các giá trị xã hội, tri thức kinh nghiệm hình thành từ lâu đời, trở thành những nguyên tắc đạo đức, phong tục, tập quán điều chỉnh hành vi con người, khi được sử dụng hợp lý, kết hợp với thể chế chính thức, sẽ giúp chuyển tải ý thức pháp luật vào cuộc sống. Phát huy vai trò tự quản của cộng đồng dân cư bù đắp cho những giới hạn về nguồn lực của Nhà nước và giảm thiểu nguy cơ quan liêu khi phình to bộ máy tổ chức, biên chế nhiều tầng nấc khi vươn đến quản lý cộng đồng, thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở đối với những nội dung mà người dân có khả năng tự mình làm tốt hơn Nhà nước.

Bảy là, thúc đẩy tính tích cực của người dân trong thực hiện quyền và nghĩa vụ, tham gia công việc quản lý nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ định hình trên thực tế khi người dân ý thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, tự kiểm soát mọi hành vi không vượt khỏi các quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội. Quyền phải gắn với nghĩa vụ, như đóng thuế đầy đủ bảo đảm nguồn thu ngân sách phục vụ lợi ích công cộng, sử dụng dịch vụ công cộng có trách nhiệm gắn với trách nhiệm đóng phí, chia sẻ nguồn lực với cộng đồng tham gia phát triển xã hội.

4- “Xã hội” vận hành dựa trên sự kết hợp giữa thể chế pháp luật và thể chế xã hội, trong đó thể chế xã hội có vai trò bổ sung, hỗ trợ cho thể chế pháp luật. Tổ chức xã hội tập hợp những người có chung mục đích, theo nguyên tắc tự nguyện và không vì mục đích lợi nhuận, hoạt động theo pháp luật và điều lệ của tổ chức, nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng, hợp pháp của thành viên và tham gia quản lý nhà nước. Tuy vậy, mỗi cộng đồng hay tổ chức xã hội thường theo đuổi lợi ích riêng nhiều khi xung đột nhau, kể cả gây tổn hại đến lợi ích chung. Thành phần tham gia tổ chức xã hội không thuần nhất, liên kết lỏng lẻo, nhu cầu phong phú, tư tưởng đa dạng, nên khi bị các thế lực xấu lợi dụng, kích động, lôi kéo, có trường hợp nảy sinh tư tưởng cực đoan. Tổ chức xã hội có ưu thế giải quyết một số vấn đề tại cộng đồng vi mô hoặc một ngành, nghề cụ thể, nhưng không đủ khả năng giải quyết những vấn đề phức tạp mang tính đa ngành, hoạt động trên phạm vi rộng lớn.

Vì vậy, vai trò, tính tích cực của xã hội và mỗi cá nhân con người chỉ được phát huy đầy đủ, đúng đắn khi có sự quản lý thống nhất của Nhà nước dựa trên nguyên tắc pháp quyền, vận dụng hợp lý nguyên tắc thị trường và sự hợp tác, chia sẻ, đồng hành của doanh nghiệp, cụ thể:

Một là, pháp luật là công cụ quan trọng hàng đầu bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước dựa trên nguyên tắc pháp quyền, tạo khuôn khổ thể chế cho các chủ thể thị trường tự do cạnh tranh, các tổ chức xã hội, cộng đồng thực hiện tự quản, công dân được làm những gì pháp luật không cấm, tự do của người này không cản trở tự do của người khác. Trong trường hợp này, sự quản lý thống nhất của Nhà nước không đối lập với tự quản mà chỉ đối lập với bệnh cục bộ, bản vị, vô chính phủ; tự quản cộng đồng không đối lập với sự quản lý thống nhất của Nhà nước mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên quyền, độc đoán.

Hai là, hoàn thiện cơ chế tài chính để các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng nhận hỗ trợ từ Nhà nước, tài trợ từ doanh nghiệp, từ nước ngoài mà không bị hành chính hóa làm suy giảm tính độc lập và năng lực giám sát, phản biện xã hội, hoặc bị hướng lái bởi ý đồ của nhà tài trợ. Điều đó bảo đảm nguồn lực nhà nước, doanh nghiệp và xã hội được kết nối, phục vụ cho các mục đích tốt đẹp; vì quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên; loại bỏ nguy cơ bị lợi dụng, hướng lái vì động cơ xấu của các thế lực thù địch, đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc.

Ba là, vận dụng nguyên tắc thị trường vào quản trị các tổ chức phi lợi nhuận. Nguồn lực các tổ chức phi lợi nhuận được hình thành từ hỗ trợ của Nhà nước, tài trợ của doanh nghiệp và hoạt động kinh tế - tài chính của tổ chức. Cần chuyển đổi phương thức hỗ trợ tài chính ngân sách từ dựa theo căn cứ “đầu vào” sang dựa theo kết quả “đầu ra”, nhất là đấu thầu các gói dịch vụ sử dụng tài chính ngân sách gắn với xác định chỉ tiêu, định mức sản phẩm cụ thể. Hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận không có nghĩa là khước từ lợi nhuận, mà thậm chí phải tìm cách tạo ra lợi nhuận một cách chuyên nghiệp, nhưng lợi nhuận đó không chia cho các thành viên hội đồng quản trị mà được tái đầu tư phục vụ cho mục tiêu phát triển xã hội. Vì vậy, các tổ chức phi lợi nhuận cần chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh tế để bảo đảm nguồn tài chính bền vững phục vụ hoạt động, thực hiện trách nhiệm xã hội.

Bốn là, phát huy dân chủ rộng rãi, thực chất, đi đôi với siết chặt kỷ cương, phép nước, phòng ngừa và ngăn chặn các biểu hiện lợi dụng quyền tự do, dân chủ mà xâm hại đến lợi ích người khác, vi phạm pháp luật, đe dọa an ninh xã hội. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường lợi dụng tự do, dân chủ để tập hợp lực lượng, gây ảnh hưởng, chờ thời cơ thì công khai chống đối Nhà nước, đi ngược lại lợi ích nhân dân. Tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục gắn với tăng cường kỷ cương, phép nước, bảo đảm cho các tổ chức xã hội hoạt động đúng pháp luật và điều lệ, mang lại lợi ích thiết thực cho hội viên, đoàn viên và đất nước.

Năm là, kết nối nguồn lực, cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức công đoàn để cải thiện phúc lợi người lao động tại doanh nghiệp. Thể chế pháp luật tiến bộ về lao động và quan hệ lao động có vai trò thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trước hết là bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động tại doanh nghiệp (quyền công đoàn, đóng bảo hiểm, môi trường lao động an toàn, chế độ nghỉ dưỡng, đào tạo tay nghề...). Đồng thời, xác định trách nhiệm của chính quyền các cấp trong bảo đảm phúc lợi cho người lao động (như quy hoạch quỹ đất, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nhà ở xã hội, thiết chế văn hóa, trường học, trạm y tế,... tại khu công nghiệp), ưu tiên thu hút các nhà đầu tư cam kết thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, hợp tác với tổ chức công đoàn để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.

Sáu là, thúc đẩy liên kết, hợp tác, chia sẻ, cùng đồng hành giữa Nhà nước, doanh nghiệp với các lực lượng xã hội, bảo đảm nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Đó là cơ chế bảo đảm Nhà nước gần dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những bức xúc của nhân dân. Đó là cơ chế liên kết “bốn nhà” (nhà nông, Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) để thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, khắc phục hạn chế của nền sản xuất tiểu nông nhỏ lẻ, manh mún, tính tự phát của thị trường tác động tiêu cực đến đời sống nông dân. Đó là thúc đẩy hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, nhà khoa học là động lực, bảo đảm ứng dụng, thương mại hóa các sáng chế, phát triển thị trường khoa học - công nghệ, đưa tri thức vào thực tiễn cuộc sống.

5- Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh đến quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số, xã hội số. Đại hội đề ra nhiệm vụ: “Phát triển hạ tầng số và bảo đảm an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận nguồn tài nguyên số, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn”(6).  Quan điểm phát triển của “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030” xác định: “Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số”(7) ...

Định hướng bao trùm là thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số; đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử và kinh tế số. Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia. Đẩy nhanh chuyển đổi số đối với một số ngành, lĩnh vực đã có điều kiện, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ứng dụng và phát triển công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), in 3D, internet kết nối vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.  

Xây dựng hệ thống pháp luật thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới. “Phải coi trọng hơn quản lý phát triển xã hội; mở rộng dân chủ phải gắn với giữ vững kỷ luật, kỷ cương”(8). Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối, liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.

“Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”(9)

Chủ trương, định hướng nêu trên chỉ ra rằng quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số được tiến hành cả ở tầm quản trị quốc gia và quản trị từng phân hệ - lĩnh vực của đời sống, từ quản lý - quản trị đến tổ chức sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Vì thế, quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số bao hàm cả mặt thúc đẩy phát triển, tận dụng cơ hội mà xã hội thông tin mang lại và đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa những tác động tiêu cực. Không gian mạng trở thành chiến trường chính của cuộc chiến thông tin, đấu tranh với các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, bảo vệ chân lý, lẽ phải, các giá trị của chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện chủ trương, định hướng quản lý nêu trên đòi hỏi phát huy đầy đủ cả vai trò Nhà nước, thị trường và xã hội. Vai trò của Nhà nước không chỉ kiến tạo thể chế, pháp luật cho hình thành mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển xã hội số, mà còn đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ, phát triển hạ tầng số, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng chính phủ số, đầu tư xây dựng dữ liệu số phục vụ cả quản lý nhà nước, bảo đảm quyền tiếp cận của người dân và doanh nghiệp. Nhà nước Việt Nam đi tiên phong trong không chỉ tạo “cung”, mà cả tạo “cầu” cho phát triển kinh tế số, xã hội số, nhất là thúc đẩy các dự án quản lý xã hội được số hóa, điển hình là dữ liệu quốc gia về dân cư và các dự án số hóa. Chủ quyền không gian mạng trở thành một bộ phận của chủ quyền quốc gia gắn chặt với vai trò bảo đảm an ninh mạng của Nhà nước. Tác chiến trên môi trường không gian mạng cũng lấy lực lượng các cơ quan nhà nước làm nòng cốt. Vai trò của doanh nghiệp được thúc đẩy đầu tư vào các ngành, nghề kinh doanh mới, thương mại điện tử, ứng dụng khoa học - công nghệ,... đồng thời, có thể tham gia hợp tác phát triển hạ tầng số, chính phủ số,... thông qua các dự án cụ thể; có quyền tiếp cận các dữ liệu thông tin một cách công bằng, minh bạch. Liêm chính kinh doanh của doanh nghiệp trên môi trường không gian mạng góp phần thúc đẩy trách nhiệm xã hội, nhất là loại bỏ các thông tin xấu, độc, tin rác, tin giả hay hành vi trốn thuế, bảo đảm quyền của lao động khu vực việc làm kinh tế chia sẻ. Vai trò của xã hội tham gia vào quản trị xã hội số ngày càng quan trọng khi hoạt động với tư cách là công dân số. Xây dựng chính phủ số thành công sẽ thúc đẩy công khai, minh bạch, đặt hoạt động của các cơ quan nhà nước và công chức trước sự giám sát của xã hội cũng như tăng cường năng lực phản hồi xã hội trước tác động của mỗi quyết định quản lý. Nếu cộng đồng mạng ứng xử có trách nhiệm trên không gian mạng thì sẽ là nền tảng xã hội góp phần bảo đảm an ninh mạng. Mỗi công dân số tham gia hoạt động truyền thông, thương mại điện tử,... có trách nhiệm sẽ góp phần xây dựng xã hội số có kỷ cương, trật tự, đề kháng có hiệu quả trước mọi hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên môi trường không gian mạng./.

Tạp chí Cộng sản

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/moi-quan-he-giua-nha-nuoc-thi-truong-va-xa-hoi-trong-quan-ly-phat-trien-xa-hoi-nhung-van-de-dat-ra-cho-phat-trien-xa-hoi-so-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang-a7157.html