CT&PT - Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc là vấn đề vừa mang tính lịch sử vừa mang tính thời đại. Đây là vấn đề lĩnh vực nhạy cảm không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính quốc tế. Việc thực hiện chính sách dân tộc và giải quyết các vấn đề dân tộc tốt đảm bảo sự phát triển ổn định cho mỗi quốc gia, đặc biệt là một đất nước có tới 54 dân tộc như Việt Nam hiện nay. Thành tựu của chính sách dân tộc thể hiện tính khoa học, đúng đắn của quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc.
1. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng là: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển”, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Có thể tổng kết quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở những nội dung cơ bản sau:
- Bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Bình đẳng giữa các dân tộc là nội dung cốt lõi của chính sách dân tộc. Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp, đều có địa vị pháp lý ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được ghi nhận với tính chất là một nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp và được thể hiện thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ, kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ty dân tộc… Đồng bào các dân tộc đều được quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước, làm việc trong các cơ quan Nhà nước, tham gia đóng góp ý kiến vào các chính sách của Nhà nước.
Quyền bình đẳng về kinh tế bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư nguồn lực để thúc đẩy việc phát triển kinh tế đối với các dân tộc có kinh tế chậm phát triển, để cùng đạt trình độ phát triển chung với các dân tộc khác trong cả nước.
Bình đẳng về văn hoá, xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, làm phong phú, đa dạng nền văn hoá Việt Nam. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước đầu tư cho sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, duy trì nòi giống, phát triển giáo dục cho đồng bào các dân tộc.
Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển thấp, nên bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cho đồng bào các dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển chính là thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
- Đoàn kết dân tộc - vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách mạng Việt Nam
Nhất quán trong đường lối về đoàn kết dân tộc, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định mạnh mẽ quan điểm bền vững “Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta”. Đồng thời, đây cũng luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách, phải quan tâm thực hiện. Chính sách dân tộc luôn được coi là chính sách quan trọng trong sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thể hiện trên cả phương diện đối nội và đối ngoại. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết, cùng nhau xây dựng đất nước với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mỗi dân tộc trên đất nước Việt Nam đều phải có trách nhiệm chăm lo vun đắp, củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc.
- Các dân tộc tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển
Hiện nay trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc ở nước ta vẫn còn khoảng cách khá xa. Kinh tế ở miền núi và các vùng dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, nhiều nơi còn lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập quán canh tác còn lạc hậu, tỷ lệ đói nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước. Chênh lệch về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc ngày càng tăng. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số còn thấp. Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan của dân tộc thiểu số có xu hướng phát triển. Bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc thiểu số đang bị mai một. Mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào còn thấp. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã coi tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn có trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn hơn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau không phải chỉ giúp đỡ một chiều, ngược lại chính sự phát triển của dân tộc này là điều kiện để cho dân tộc khác cùng phát triển.
- Việc đầu tư phát triển đối với các dân tộc thiểu số được thể hiện rõ ở quan điểm chỉ đạo sau đây:
Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị
Công tác dân tộc được xác định có vị trí trọng yếu đối với sự phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Do đó, toàn bộ hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mình về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình mới, coi việc quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
2. Thực thi chính sách dân tộc ở Việt Nam trong thời gian qua
Kết quả đạt được
- Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới. Giúp đồng bào các dân tộc khắc phục tình trạng thiếu đất sản xuất, nhà ở tạm bợ, thiếu nước sinh hoạt, nâng cấp cơ sở hạ tầng, định canh, định cư, xây dựng khu kinh tế mới ở khu vực biên giới, xoá nghèo nhanh và bền vững.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số. Kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, đẩy mạnh phát triển đảng viên; nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của bộ máy chính quyền các cấp, vai trò tập hợp quần chúng của mặt trận và các đoàn thể. Kiên quyết khắc phục tình trạng cán bộ quan liêu, xa dân; thực hiện tốt phương châm “gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng các dân tộc thiểu số, phát huy sức mạnh tại chỗ, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động lợi dụng dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch; tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra “điểm nóng” trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; thực hiện tốt chủ trương xây dựng phát triển các khu kinh tế - quốc phòng ở khu vực biên giới.
- Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể đối với các vùng, các dân tộc để động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xây dựng đời sống ở khu dân cư, xây dựng bản làng văn hoá.
Hạn chế
Bên cạnh một số thành tựu đạt được, còn nhiều yếu kém cũng như thách thức đặt ra cho công tác dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Một là, hệ thống chính sách vùng dân tộc và miền núi so với giai đoạn trước có nhiều ưu điểm, nhưng còn bộc lộ không ít hạn chế, như chưa bảo đảm gắn kết thống nhất giữa chính sách phát triển dân tộc - tộc người với chính sách phát triển vùng; thời gian thực hiện chính sách ngắn, thiếu tính chiến lược; trình tự thủ tục xây dựng và trình một số đề án mất nhiều thời gian; hầu hết các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ; chính sách đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, do vậy hiệu quả chưa thực sự bền vững; nhiều chính sách phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến định mức không còn phù hợp với thực tế; có chính sách do huy động nhiều nguồn vốn, khi cấp vốn không đồng bộ dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện; việc bố trí vốn đối ứng của các địa phương gặp khó khăn do đa số các địa phương vùng dân tộc và miền núi đều phải nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương.
Việc xây dựng một số chính sách thiếu thực tế, chưa phù hợp với địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Tổ chức thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém, phân công chủ trì chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa hợp lý; việc phối hợp giữa các bộ, ngành có lĩnh vực chưa chặt chẽ, chỉ đạo có mặt còn chồng chéo. Việc lồng ghép các chính sách trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi còn nhiều khó khăn, bất cập. Công tác kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách còn hạn chế. Chỉ đạo, thực hiện chính sách ở một số địa phương còn lúng túng. Công tác lập kế hoạch, rà soát đối tượng thụ hưởng trong việc thực hiện một số chính sách chưa sát với thực tế...
Hai là, nguồn lực thực hiện chính sách không đủ.
Việc cân đối, bố trí vốn cho các chính sách chưa được chủ động, chưa đảm bảo cho các mục tiêu và kế hoạch đã được phê duyệt. Ngoài ra còn một loạt các chính sách về ổn định dân cư, giáo dục, đào tạo đều có mức hỗ trợ thấp nên xã nghèo, người nghèo không thể tìm thêm nguồn kinh phí khác.
Ba là, đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc tuy nhiều, nhưng cán bộ làm công tác dân tộc là người dân tộc thiểu số chiếm số lượng nhỏ. Nhiều cán bộ làm công tác dân tộc là người Kinh không biết tiếng dân tộc. Đó là một nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc. Mặt khác, quá trình phối kết hợp các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện chính sách dân tộc vẫn còn gặp nhiều khó khăn do chồng chéo về chức năng nhiệm vụ.
Bốn là, hệ thống chính sách ban hành chưa đồng bộ, cơ chế thực thi chính sách còn yếu và thiếu sự phối hợp
Sự không đồng bộ trong chính sách thường gặp ở nhóm chính sách di dân hay hỗ trợ phát triển sản xuất - những nhóm chính sách cần sự kết hợp của nhiều giải pháp hay có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực.
Cơ chế thực thi chính sách phức tạp và thiếu sự đồng bộ trước hết thể hiện ở khâu tổ chức quản lý thực hiện. Một số chương trình quốc gia nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội hay giảm nghèo gồm nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp từ trung ương cho đến địa phương thực hiện nên mặc dù mỗi chương trình đều nêu trách nhiệm của từng bộ ngành ở cấp trung ương, thậm chí nêu cả trách nhiệm của một số cấp chính quyền địa phương song sự phối hợp chưa tốt khiến cho không chỉ việc thực thi chính sách khó khăn mà hiệu quả của chính sách giảm hẳn.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong thời kỳ mới
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể đối với công tác dân tộc. Trên cơ sở triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về vấn đề dân tộc, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình mới.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
Thứ ba, huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư, phát triển, giúp đỡ vùng dân tộc và miền núi. Ưu tiên đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, phát triển nhanh kinh tế - xã hội, giải quyết những khó khăn bức xúc của đồng bào vùng dân tộc và miền núi; trước hết tập trung cho các vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện nghiêm chỉnh việc công khai hóa các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư... để đồng bào biết và tham gia quản lý, giám sát quá trình thực hiện.
Thứ tư, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Tập trung triển khai xây dựng nhanh các công trình trọng điểm. Tiếp tục đầu tư tạo cơ hội cho nông dân, nhất là những nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, thúc đẩy phát triển sản xuất để tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích và tăng giá trị thu nhập cho người lao động. Quy hoạch và đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm. Xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp, nông hộ hoàn chỉnh, mô hình sản xuất, kinh doanh tổng hợp để nhân rộng. Tăng cường trang bị kiến thức cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo biết lập kế hoạch sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm; đồng thời, có chính sách phát huy khả năng và tiềm năng về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của một số dân tộc có trình độ phát triển cao hơn.
Thứ năm, triển khai thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm y tế và các chương trình y tế quốc gia trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em. Tiếp tục củng cố mạng lưới y tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Đẩy mạnh các hoạt động y tế dự phòng, vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh môi trường, góp phần hạn chế dịch bệnh.
Thứ sáu, tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực hiện tốt chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia triển khai, thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc. Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và ở các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi.
ThS. NGUYỄN THỊ KIỀU
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/thuc-hien-chinh-sach-dan-toc-cua-dang-nha-nuoc-viet-nam-hien-nay-a1767.html